Hướng dẫn học viên cách đoán từ mới
Trong Tiếng Anh chỉ có khoảng 2. 500 từ được sử
dụng hàng ngày và có tới tận 40. 000 đến 60. 000 từ
vay mượn và là thuật ngữ chuyên ngành khác nhau.
Thực tế cho thấy ngay cả những người bản ngữ cũng
rất ít khi sử dụng từ ngữ vay mượn hay thuật ngữ
trong cuộc sống thường nhật. Đồng thời trong quá
trình học tập giáo viên không có đủ thời gian để dạy
hết cho học viên toàn bộ những từ rất ít dùng này.
Thực tế này đặt ra một câu hỏi đó là giáo viên cần
phải chú trọng dạy cho học viên 2. 500 từ ngữ thông
dụng nói trên và dành thời gian giúp học viên tập
đoán ý nghĩa của 40. 000 đến 60. 000 từ còn lại như
thế nào.
Trong mỗi bài học, học viên luôn gặp phải rất nhiều
từ mới. Do đó nếu giáo viên dành thời gian dạy toàn
bộ số lượng từ mới đó thì sẽ không thể có đủ thời
gian để dạy các nội dung khác như ngữ pháp và 4 kĩ
năng như nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra trí nhớ của
con người có hạn và người giáo viên khó có thể giúp
học viên nhớ được toàn bộ số từ mới và vận dụng
chúng trong cuộc sống hàng ngày. Hơn thế, học viên
sẽ luôn có cảm giác mình đang học một cách thụ
động vì lúc nào cũng cần có sự hướng dẫn cụ thể của
giáo viên. Một số học viên tự rút ra cho mình cách
đoán từ mới một cách hiệu quả song không phải học
viên nào cũng làm được điều đó. Do vậy giáo viên
cần hướng dẫn cho học viên cách đoán từ mới trong
những tình huống khác nhau.
Trong quá trình dạy kỹ năng đọc, hơn ai hết người
giáo viên phải là người xác định xem trong số những
từ mới đó từ nào học viên cần phải học một cách chủ
động, từ nào học viên có thể đoán được trong ngữ
cảnh của câu và từ nào học viên nên bỏ qua trong khi
làm bài. Để làm được điều này, giáo viên cần xem xét
vai trò của từ mới trong câu cũng như mức độ khó
của chúng so với trình độ của học viên.
Nếu từ mới đóng vai trò là từ chốt, từ khoá trong câu
thì giáo viên cần phải dạy một cách chủ động tức là
giáo viên phải tuân theo các bước dạy một từ mới. Từ
mới ấy vô cùng quan trọng trong câu nhưng lại khó
đối với học viên thì giáo viên cần chú giải hay nói
nghĩa Tiếng Việt ngay cho học viên. Nếu từ mới ấy
không quan trọng nhưng lại không đến mức quá khó
thì giáo viên nên khuyến khích học viên đoán nghĩa
của từ trong ngữ cảnh của câu. Trường hợp từ mới đó
không ảnh hưởng nhiều đến ý nghĩa của câu đồng
thời lại khó so với trình độ của học viên thì cách tốt
nhất giáo viên nên làm là để học viên bỏ qua từ mới
này.
Vậy giáo viên cần giúp học viên đoán từ mới bằng
cách nào?
Trước hết hãy yêu cầu học viên xem xét liệu từ mới
ấy có xuất hiện lại trong bài đọc hay không? Nếu có
thì giáo viên cần hướng dẫn học viên so sánh cách
dùng của từ mới trong ngữ cảnh ấy. Thực tế, học viên
có thể đoán được từ loại của từ mới ấy thông qua
những dấu hiệu dễ thấy. Chẳng hạn như từ mới thuộc
từ loại động từ nếu nó được kết thúc bằng các đuôi
“ed”, “ing” hoặc “s” và trước từ mới là các trợ động
từ như “is”, “can”, “have”, ”has”, “does”, “do”,
“did”, etc. Từ mới thuộc từ loại trạng từ nếu kết thúc
bằng đuôi “ly” và từ mới thuộc từ loại danh từ nếu
đứng trước nó là mạo từ hay các từ chỉ lượng. Học
viên có thể nhận biết được danh từ riêng nếu như nó
được viết hoa. Nhìn chung trạng từ và tính từ có thể
được nhận biết thông qua vị trí của chúng ở trong câu
và học viên có thể bỏ qua chúng vì trạng từ và tính từ
về cơ bản không ảnh hưởng nhiều đến ý nghĩa của
câu.
Một điều quan trọng khi đoán từ mới là học viên phải
đọc đi đọc lại các từ trước và sau từ mới. Một số học
viên thường có thói quen dừng lại khi họ gặp từ mới.
Đây là một thói quen mà học viên cần phải thay đổi
vì manh mối giúp chúng ta đoán được ý nghĩa của từ
mới chính là 5 đến 10 từ đứng trước hoặc sau nó. Do
đó, giáo viên cần hướng dẫn học viên đọc các từ xuất
hiện xung quanh từ mới vô cùng cẩn thận. Sau đó
giáo viên cần phải kiểm tra sự phỏng đoán của học
viên bằng cách đặt câu hỏi về từ loại cũng như ý
nghĩa của từ mới thông qua các từ đồng nghĩa hay
thành phần tiền tố hay hậu tố của chúng.
Quá trình tập đoán từ mới không phải đã có kết quả
ngay trong chớp mắt. Vì thế học viên rất cần có sự
động viên, khuyến khích và đánh giá kịp thời của
giáo viên.
Source: Đỗ Tình