Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

CHỨNG ĐAU THẦN KINH TỌA - Phần II pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.13 KB, 15 trang )

CHỨNG ĐAU THẦN KINH TỌA
Phần II
CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ NGUYÊN NHÂN
Nguồn gốc của cơn đau thường không được nhận ra, và các phương pháp nghiên
cứu hình chụp có thể không xác định được nguyên nhân. Chứng bệnh về đĩa đệm,
thấp khớp cột sống, và các tình trạng co cứng cơ được chẩn đoán là các nguyên
nhân phổ biến nhất. Tuy nhiên, các chứng bệnh khác cũng có thể gây ra đau lưng.

Những Chấn Thương Và Sự Kéo Căng ở Vùng Thắt Lưng của Cơ và Dây
Chằng
Sự kéo căng và chấn thương các cơ cũng như các dây chằng hỗ trợ cho lưng là
những nguyên nhân chính gây ra chứng đau lưng. Cơn đau nhức thường lan ra các
cơ gần cột sống, và có thể có liên quan đến những sự co cứng của các cơ này. Cơn
đau có thể di chuyển xuống vùng mông nhưng hiếm khi lan xuống chân.

Chứng Đau Thần Kinh Tọa
Dây thần kinh tọa là dây thần kinh lớn nhất bắt nguồn từ vùng thắt lưng.
• Nó hình thành gần cột sống và được cấu tạo từ những nhánh đầu dây thần kinh
cột sống thắt lưng.
• Nó di chuyển qua khung chậu và rồi đi sâu vào mỗi bên mông.
• Rồi nó di chuyển xuống mỗi bên chân. Nó là dây thần kinh đơn dài nhất và rộng
nhất trong cơ thể.
Chứng đau thần kinh tọa không phải là một quá trình chẩn đoán bệnh mà là một sự
mô tả các triệu chứng. Bất cứ điều gì tạo áp lực lên một hoặc nhiều đầu dây thần
kinh ở thắt lưng có thể gây ra đau nhức ở một số đoạn hoặc toàn bộ dây thần kinh
tọa. Chứng thoát vị đĩa đệm, chứng hẹp cột sống, bệnh thoái hóa đĩa đệm, trượt
đốt sống, hoặc các bất thường của đốt sống có thể gây ra áp lực lên dây thần kinh
tọa.
Một vài trường hợp đau thần kinh tọa có thể xảy ra khi một cơ bắp nào đó ở bên
trong phần mông đè lên dây thần kinh tọa. Phần cơ này được gọi là cơ hình trái lê
(piriformis = “pirium: trái lê” + “forma: hình dáng”). Chứng bệnh liên quan được


gọi là hội chứng cơ hình lê (piriformis syndrome). Hội chứng cơ hình lê thường
phát triển sau khi bị chấn thương. Hội chứng này đôi khi rất khó chẩn đoán.



Sciatic nerve: Dây thần kinh tọa

Pain from sciatica radiates from the buttock down the leg and can travel as far as
the feet and toes: Cơn đau do chứng đau thần kinh tọa lan tỏa từ mông xuống
chân và có thể di chuyển xuống tận bàn chân và ngón chân.

Dây thần kinh chính di chuyển xuống chân là dây thần kinh tọa. Cơn đau có liên
quan đến dây thần kinh tọa thường bắt đầu khi các đầu dây thần kinh ở tủy sống
bị đè nén hoặc bị tổn thương. Các triệu chứng có thể bao gồm cảm giác bị châm
nhẹ trong da, tình trạng bị tê, hoặc cơn đau lan tỏa xuống mông, chân, và bàn
chân.

Bị đau nhức hay bị tê do chứng đau thần kinh tọa có thể biến đổi khá rộng. Có thể
có cảm giác bị châm nhẹ trong da, đau âm ỉ, hoặc cảm giác như bị đau rát. Trong
một số trường hợp, cơn đau nghiêm trọng đến nỗi có thể gây ra tình trạng bất
động.
Cơn đau rất thường xảy ra ở một bên cơ thể và có thể lan tỏa xuống mông, chân,
và bàn chân. Một số người bị đau nhói ở một phần của chân hoặc hông và bị tê ở
những phần khác. Bên phía chân bị ảnh hưởng có thể có cảm giác đuối sức.
Cơn đau nhức thường bắt đầu một cách chậm chạp. Cơn đau thần kinh tọa có thể
trở nặng hơn:
• Vào ban đêm
• Sau khi đứng hoặc ngồi trong một thời gian dài
• Lúc hắt hơi, ho, hoặc cười.
• Sau khi ngửa người ra phía sau hoặc sau khi đi bộ hơn 50 – 100 yard (khoảng 46

– 92 mét) (đặc biệt là nếu cơn đau do chứng thu hẹp cột sống gây ra – xem bên
dưới)
Cơn đau thần kinh tọa thường biến mất trong vòng 6 tuần, trừ phi có những chứng
bệnh nghiêm trọng tiềm ẩn khác. Cơn đau nhức mà kéo dài hơn 30 ngày, hoặc trở
nặng khi ngồi, ho, hắt hơi hoặc cơ bị kéo căng có thể cho thấy dấu hiệu hồi phục
lâu hơn. Các triệu chứng có thể xuất hiện và biến mất tùy thuộc vào nguyên nhân
gây ra chứng đau thần kinh tọa.

Thoát Vị Đĩa Đệm
Thoát vị đĩa đệm (herniated disk), thỉnh thoảng (không chính xác) được gọi là
trượt đĩa (slipped disk), là một nguyên nhân phổ biến gây ra cơn đau buốt ở lưng
và chứng đau thần kinh tọa. Đĩa đệm ở vùng thắt lưng bị thoát vị khi nó bị nứt
hoặc bị mỏng đi, và thoái hóa đến mức độ mà lớp thạch trong đĩa đệm bị đẩy tràn
ra bên ngoài. Đĩa đệm bị tổn thương có nhiều hình dạng:
• Tình trạng sưng lồi ra (a bulge) – Thạch đệm bị đẩy tràn ra khỏi đĩa đệm một ít
và được phân phối đều đặn chung quanh chu vi đĩa đệm.
• Tình trạng nhô ra (Protrusion) – Thạch đệm bị đẩy ra một ít và không cân xứng
vào những nơi khác nhau
• Tình trạng bị đùn ra (extrusion) – Thạch đệm phồng to lên như quả bóng tràn vào
khu vực nằm bên ngoài các đốt sống hoặc khu vực bị gãy rời khỏi đĩa đệm.

Cơn đau nhức ở chân có thể nặng hơn cơn đau ở lưng đối với những trường hợp bị
thoát vị đĩa đệm. Cũng có một số tranh cãi về cách thức cơn đau phát triển ở
chứng thoát vị đĩa đệm và tính thường xuyên của sự đau nhức ở phần thắt lưng mà
căn bệnh này gây ra. Có nhiều người có những đĩa đệm bị sưng lồi hoặc nhô ra
nhưng không bị đau lưng. Đĩa đệm bị đùn ra (ít phổ biến hơn hai tình trạng kia)
liên quan rất lớn đến chứng đau lưng, vì thạch đệm có khuynh hướng tràn ra xa đủ
để đè lên đầu dây thần kinh, thường là dây thần kinh tọa. Tuy nhiên, đĩa đệm bị
đùn ra thường rất ít phổ biến, trong khi đó thì chứng đau thần kinh tọa và đau vùng
thắt lưng rất phổ biến. Nhưng cũng có thể có những nguyên nhân khác gây ra đau

ở thắt lưng.
Những Bất Thường ở Vành Ngoài Đĩa Đệm. Nghiên cứu cũng tập trung vào những
vết rách ở vòng ngoài đĩa đệm, là băng sợi bao quanh và bảo vệ đĩa đệm. Vành
ngoài đĩa đệm chứa một mạng lưới thần kinh dầy đặc và hàm lượng cao peptit mà
làm gia tăng sự cảm nhận của cơn đau nhức. Những vết rách ở vành ngoài đĩa đệm
thường được tìm thấy ở những bệnh nhân mắc chứng thoái hóa đĩa đệm. Một số
trường hợp bị đau vùng thắt lưng mãn tính cũng có thể bị gây ra bởi tình trạng các
sợi thần kinh mọc vào hướng bên trong của vành ngoài đĩa đệm, điều này tạo nên
cơn đau nhức trong đĩa đệm.
Hội chứng đuôi ngựa. Hội chứng đuôi ngựa (cauda equina syndrome) là tình trạng
các dây thần kinh đuôi ngựa bị đè nén (là bốn sợi bện gồm các dây thần kinh đi
qua phần dưới cùng của cột sống). Nguyên nhân là do khối đùn thạch đệm khá lớn
ở đĩa đệm. Hội chứng đuôi ngựa là một tình trạng nguy hiểm mà có thể gây ra các
biến chứng nghiêm trọng đến ruột hoặc các chức năng của bàng quang (bọng
đái). Nó có thể gây ra tình trạng vĩnh viễn không kiềm chế được những chức năng
bài tiết (permanent incontinence) nếu không được giải phẫu kịp thời. Các triệu
chứng của hội chứng đuôi ngựa bao gồm:
• Đau lưng nhẹ
• Đau hoặc tê ở vùng mông, khu vực giữa hai chân, hoặc ở phần đùi trong, đùi sau,
hoặc bàn chân; có thể gây vấp ngã hoặc đứng không vững
• Mất khả năng kiểm soát việc đi tiểu và đi tiêu
• Cơn đau nhức đi kèm với cơn sốt (có thể cho thấy bị nhiễm bệnh)

Bệnh Thoái Hóa Đĩa Đệm Thắt Lưng/Thoái Hóa Đốt Sống
Bệnh viêm xương khớp (Osteoarthritis) xảy ra ở những khớp cột sống, thường là
do lớn tuổi, nhưng cũng là do ảnh hưởng của những chấn thương ở lưng trước đây,
tổn thương và hư hại nặng, trước đây bị thoát vị đĩa đệm, đã từng tiếp nhận phẫu
thuật, và bị gãy (nứt) xương. Phần sụn nằm giữa các khớp cột sống bị hủy hoại và
xuất hiện tình trạng mọc thêm xương phụ và gai. Tốc độ của những thay đổi này
tiến triển tùy theo mỗi cá nhân. Hậu quả của những thay đổi này là cột sống bị mất

linh hoạt, các khoảng không giành cho những giây thần kinh ở cột sống và tủy
sống bị thu hẹp lại, các đĩa đệm ở cột sống bị khô cứng hoặc thoái hóa. Tùy thuộc
vào khu vực bị ảnh hưởng và tình trạng bị ảnh hưởng của cột sống, các triệu chứng
có thể tương tự như của tình trạng đĩa đệm bị thoát vị, tình trạng kéo căng ở thắt
lưng, chứng hẹp cột sống (tình trạng ống cột sống bị thu hẹp).

Chứng Hẹp Cột Sống
Chứng hẹp cột sống (Spinal Stenosis) là tình trạng thu hẹp ống tủy sống, hoặc thu
hẹp phần miệng (được gọi là lỗ thần kinh) nơi mà những dây thần kinh cột sống
xuất phát từ cột sống đi đến những cơ quan khác trong cơ thể. Tình trạng này
thường phát triển khi một người trở nên già đi và những đĩa đệm bị khô đi và bắt
đầu teo lại. Vào cùng thời điểm đó, xương và dây chằng ở cột sống sưng lên hoặc
phát triển lớn hơn do bị viêm khớp và viêm sưng mãn tính. Tuy nhiên, những
chứng bệnh khác, như nhiễm trùng và dị tật bẩm sinh, thỉnh thoảng có thể gây ra
chứng hẹp cột sống.
Phần lớn bệnh nhân sẽ báo cáo tình trạng đau lưng trước đây càng ngày càng xấu
đi. Đối với một số khác, thì trước đây có thể ít bị đau lưng, nhưng vào một thời
điểm nào đó bất kỳ sự chấn thương nào, chẳng hạn như một sự thương tổn nhẹ mà
làm đĩa đệm bị sưng tấy, cũng có thể gây tác động đến đầu dây thần kinh và tạo ra
cơn đau nhức.
Các bệnh nhân có thể gặp phải cơn đau hoặc bị tình trạng tê, mà có thể xảy ra ở cả
hai chân, hoặc chỉ một bên chân. Các triệu chứng khác bao gồm cảm giác bị đuối
sức hoặc nặng nề ở phần mông và chân. Các triệu chứng thường xuất hiện và trở
nặng thêm khi người bệnh đứng hoặc đi bộ. Thông thường các triệu chứng sẽ giảm
bớt hoặc biến mất khi người bệnh ngồi xuống hoặc nghiêng người về phía trước.
Những tư thế này có thể tạo thêm nhiều khoảng không ở ống tủy sống, vì thế làm
giảm áp lực lên tủy sống hoặc lên các dây thần kinh cột sống. Các bệnh nhân mắc
chứng hẹp cột sống thường không thể đi bộ lâu được. Họ có thể có khả năng đạp
xe đạp loại máy tập thể dục.


Trượt Đốt Sống
Trượt đốt sống (spondylolisthesis) xảy ra khi một đốt sống ở vùng thắt lưng trượt
ra khỏi đốt sống khác, hoặc trượt ra khỏi xương cùng (sacrum).
Ở trẻ em, tình trạng trượt đốt sống thường xảy ra giữa đốt sống thứ 5 ở vùng thắt
lưng (đốt sống thắt lưng) và đốt sống thứ 1 ở khu vực xương cùng. Tình trạng này
thường là do dị tật bẩm sinh ở khu vực đó của cột sống. Ở những người trưởng
thành, nguyên nhân phổ biến nhất là chứng bệnh thoái hóa (chẳng hạn như chứng
viêm khớp). Tình trạng trượt đốt sống này thường xảy ra giữa đốt sống thắt lưng
thứ 4 và thứ 5. Tình trạng này thường phổ biến hơn ở những người trên 65 tuổi và
ở phụ nữ.
Các nguyên nhân khác của tình trạng trượt đốt sống bao gồm những vết nứt nhỏ ở
xương (stress fractures) (thường thấy ở những vận động viên thể dục) và những
tình trạng gãy (nứt) xương do tai nạn (traumatic fractures). Trượt đốt sống thỉnh
thoảng có thể có liên quan đến những căn bệnh về xương.
Trượt đốt sống có thể thay đổi từ nhẹ cho đến nghiêm trọng. Tình trạng này có thể
sản sinh ra tật ưỡn cột sống (lordosis) (chứng võng lưng ngựa), nhưng ở những
giai đoạn cuối có thể dẫn đến chứng gù (kyphosis) (lưng còng) vì phần cột sống
phía trên rút xuống phần cột sống phía dưới.
Các triệu chứng có thể bao gồm:
• Đau thắt lưng
• Đau ở đùi và mông
• Khó di chuyển phần lưng
• Cứng cơ
• Dễ bị đau ở khu vực trượt đốt sống
Cơn đau nhức thường xảy ra khi hoạt động và khá hơn khi nghỉ ngơi. Tổn thương
về thần kinh (chân yếu hoặc thay đổi cảm giác) có thể do áp lực lên đầu dây thần
kinh, và có thể gây ra cơn đau nhức lan tỏa xuống chân.

Những Tình Trạng Viêm Sưng và Chứng Viêm Khớp
Những rối loạn về viêm sưng và các hội chứng viêm khớp có thể sản sinh ra sự

viêm sưng ở cột sống.
Viêm cứng khớp đốt sống (Ankylosing spondylitis) là một chứng viêm sưng mãn
tính của cột sống mà có thể dần dần dẫn đến tình trạng dính liền của các đốt sống.
Các triệu chứng bao gồm sự phát triển chậm tình trạng khó chịu ở lưng, với cơn
đau kéo dài hơn 3 tháng. Lưng thường bị đau cứng vào buổi sáng; cơn đau có thể
dịu bớt bằng cách di chuyển hoặc tập thể dục. Trong những trường hợp nghiêm
trọng, bệnh nhân có thể đứng hoặc ngồi dáng lưng tôm. Tuy nhiên, nó có thể khá
nhẹ và hiếm khi ảnh hưởng đến khả năng làm việc của một người. Tình trạng này
phần lớn xảy ra ở những thanh niên nam nữ da trắng ở độ tuổi từ 20 đến 30. Căn
bệnh này thường thấy ở đàn ông, nhưng khoảng 30% các trường hợp thì xảy ra ở
phụ nữ. Các nhà nghiên cứu tin rằng trong đa số các trường hợp thì nguyên nhân
là do di truyền.
Khoảng 20% số người mắc chứng rối loạn đường tiêu hóa mãn tính (inflammatory
bowel disease) và khoảng 20% số người mắc bệnh vẩy nến (psoriasis) phát triển
một dạng tương tự của chứng viêm khớp có liên quan đến cột sống. Có nhiều
phương pháp điều trị cho căn bệnh có nguy cơ gây tàn tật này, bao gồm các loại
thuốc ức chế miễn dịch khác nhau. Etanercept (Enbrel) và infliximab (Remicade),
là những loại thuốc kháng viêm có tên là chặn-TNF, đang được chứng minh là có
hiệu quả.

Chứng Loãng Xương và Tình Trạng Nứt Cột Sống Do Đè Nén
Chứng loãng xương (Osteoporosis) là một căn bệnh của bộ xương trong đó số
lượng canxi hiện diện trong xương dần dần giảm xuống đến một mức độ mà
xương trở nên mỏng dòn và dễ bị gãy (nứt). Chứng bệnh này thường không gây
đau nhức trừ khi các đốt sống bị sụp xuống một cách đột ngột, trong trường hợp
đó người bệnh thường bị đau nhức nghiêm trọng. Có thể có nhiều đốt sống bị ảnh
hưởng.
Đối với tình trạng nứt đốt sống do đè nén, mô của xương đốt sống bị phân hủy.
Kết quả là có thể có nhiều đốt sống bị gãy nứt. Khi tình trạng gãy nứt là do chứng
loãng xương, thì các đốt sống ở phần ngực và phần dưới cột sống thường bị ảnh

hưởng, và việc đi bộ sẽ làm cho các triệu chứng trở nên nghiêm trọng hơn.
Nếu có nhiều vết gãy nứt, thì sẽ gây ra chứng gù lưng. Thêm vào đó, tình trạng nứt
cột sống do đè nén thường chịu trách nhiệm cho vấn đề mất đi chiều cao. Áp lực
lên tủy sống cũng có thể xảy ra, sản sinh ra những triệu chứng như tình trạng tê,
cảm giác bị châm nhẹ trong da, hoặc đuối sức. Các triệu chứng còn tùy thuộc vào
khu vực lưng bị ảnh hưởng, tuy nhiên, đa số tình trạng nứt cột sống thường ổn
định và không sản sinh những triệu chứng về thần kinh.

Những Trường Hợp Đau Lưng Khẩn Cấp
Một vài tình trạng nghiêm trọng cũng có thể gây đau lưng. Thông thường, những
triệu chứng này phát triển trong một thời gian ngắn, trở nên nghiêm trọng hơn, và
có thể có những phát hiện khác đi kèm theo. Một số tình trạng này bao gồm:
• Nhiễm trùng xương (viêm tủy xương) hoặc đĩa đệm (viêm đĩa đệm đốt sống)
• Ung thư từ những cơ phận khác lan truyền đến cột sống (phổ biến nhất là ung thư
phổi, ung thư ruột kết, ung thư tuyến tiền liệt, và ung thư vú
• Ung thư xuất phát từ xương [phổ biến nhất ở người trưởng thành là chứng đa u
tủy (multiple myeloma), được tìm thấy ở những người ở tuổi trung niên và cao
niên]; những khối u lành tính như u nguyên bào xương hoặc u xơ thần kinh và
những bệnh ung thư, bao gồm bệnh bạch cầu, cũng có thể gây ra đau lưng ở trẻ em
• Chấn thương nghiêm trọng

Những Bất Thường Hỗn Hợp và Các Chẩn Đoán
Bất kỳ sự bất thường nào ở các khớp, các đốt sống, hoặc các đầu dây thần kinh
đều có thể gây ra đau lưng, bao gồm:
• Hội chứng gây đau mãn tính ở cơ mềm và khớp (Fibromyalgia)
• Các chứng bệnh mà gây ra đau lưng, xảy ra cùng lúc với những vấn đề ở những
bộ phận không liên quan đến cột sống (mặc dù thường nằm ở gần đó); những
chứng bệnh như vậy bao gồm loét bao tử, bệnh thận (bao gồm sỏi thận), u nang
buồng trứng lành tính, và viêm tuyến tụy.
• Nhiễm trùng tử cung mãn tính hoặc nhiễm trùng khung chậu mãn tính có thể gây

ra đau vùng thắt lưng ở phụ nữ.
• Các khớp mặt (các khớp z) có thể bị mòn đi; trong những trường hợp như vậy,
cơn đau nhức sẽ xảy ra khi khom lưng hoặc khi đi bộ.
• Trong một số trường hợp một đoạn cột sống (bao gồm 2 đốt sống cùng với khớp
chung của chúng và đĩa đệm) trở nên không ổn định khi các bộ phận của nó bị
mòn đi.
• Thương tổn đến các đầu dây thần kinh, đặc biệt là rễ hạch sâu (những tế bào thần
kinh ở cột sống mà các dây thần kinh kéo dài từ da đến tế bào cơ), có thể quan
trọng trong một số trường hợp; một số bệnh nhân có thể có mô sẹo mà chặn những
đầu dây thần kinh ở phần cột sống dưới do đó gây ra chứng đau thần kinh tọa.

×