Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Suy giảm miễn dịch ở người và phương pháp nghiên cứu suy giảm miễn dịch thực nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 60 trang )

Nghiên cứu tác dụng kích thích miễn dịch và chống oxy hóa của
cao quả nhàu trên động vật thực nghiệm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhờ có sức đề kháng miễn dịch mà con người tồn tại được trước sự tấn
công của các tác nhân gây bệnh như vi sinh vật, hóa chất, vật lý….Sức đề
kháng miễn dịch hay chính là hoạt động của hệ thống tế bào có thẩm quyền
miễn dịch và các chất tiết của chúng (cytokin) khi được hoạt hóa. Sự toàn
vẹn của hệ thống này giúp cho quá trình đáp ứng miễn dịch của cơ thể diễn ra
được bình thường. Bệnh lý suy giảm miễn dịch hay còn gọi là thiếu hụt miễn
dịch có thể do các nguyên nhân bẩm sinh (nguyờn phát) hay mắc phải (thứ
phát), hậu quả là cơ thể không có hoặc giảm khả năng đáp ứng miễn dịch (dịch
thể và tế bào) để chống lại các yếu tố lạ (kháng nguyên) gây nên.[2, 4, 11].
Suy giảm miễn dịch là bệnh lý rất phổ biến, nhất là ở các nước đang
phát triển (nơi bệnh nhiễm trùng và tình trạng suy dinh dưỡng còn nhiều). Ở
những nước phát triển, tình trạng suy giảm miễn dịch cũng vẫn xảy ra do con
người bị đe dọa bởi các loại thuốc, hóa chất, yếu tố vật lý như phóng xạ, bệnh
béo phì, bệnh ung thư….[2, 7, 8, 11, 29]
Trước đây bệnh lý suy giảm miễn dịch chưa được quan tâm đúng mức,
chỉ đến những năm gần đây đại dịch HIV/AIDS của thế kỷ bùng nổ, bệnh ung
thư phát triển ngày càng tăng…gõy nên tình trạng suy giảm miễn dịch làm
khó khăn cho việc điều trị, người ta mới nghiên cứu một cách hệ thống hơn về
suy giảm miễn dịch. Hơn nữa nhờ tiến bộ của khoa học, đặc biệt y sinh học
phân tử đó giỳp hiểu rõ hơn về cơ chế phân tử của bệnh lý suy giảm miễn
dịch, để từ đó có được biện pháp điều trị miễn dịch thích hợp và hiệu quả [2,
4, 11, 29].
1
Vì vậy trong chuyên đề này xin được trình bày khái quát về bệnh lý suy
giảm miễn dịch, cơ chế bệnh sinh trong một số bệnh suy giảm miễn dịch mắc
phải phổ biến ở người và một số phương pháp nghiên cứu gõy suy giảm miễn
dịch trên thực nghiệm, cơ sở để có thể ứng dụng nghiên cứu tác dụng kích
thích miễn dịch của một số cõy con thuốc ở Việt Nam mà một trong số đó là


cao quả nhàu
2
1. Đại cương về bệnh lý suy giảm miễn dịch
Bệnh lý suy giảm miễn dịch hay còn gọi là thiếu hụt miễn dịch, biểu hiện là
cơ thể không có khả năng hoặc giảm đáp ứng miễn dịch tế bào và đáp ứng miễn
dịch dịch thể để chống lại các nguyên nhân (kháng nguyên) gây bệnh [2, 4, 7].
Hình 1: Đáp ứng miễn dịch dịch thể và tế bào
Dựa vào cơ chế sinh bệnh các nhà Miễn dịch - Sinh lý bệnh trong và
ngoài nước phõn ra làm 2 loại: suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay tiờn phỏt
(chủ yếu do di truyền) và suy giảm miễn dịch mắc phải hay thứ phát (thường
là hậu quả của quá trình bệnh lý khác).
3
MD tế bào
VK nội bào,
virus, nấm
Tế bào trình
diện KN
Tiếp nhân và
trình diện KN
Receptor
tế bào T
Tế bào T
h
Receptor với
cytokine
Ly giải các TB
bị nhiễm
Biệt hoá và
phát triển các
TBMD: Tc,

NK, ĐTB
MD dịch thể
Vi khuẩn ngoại bào
TB lympho B
Kháng thể
Ly giải (bổ thể)
1.1. Suy giảm miễn dịch bẩm sinh:
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh là do những bất thường của vật chất di
truyền. Dựa vào nguồn gốc và vị trí tổn thương của các tế bào miễn dịch
người ta phân loại suy giảm miễn dịch như sau:
Hình 2 . Sơ đồ biệt hóa và vị trí tổn thương các tế bào miễn dịch
(1) Suy giảm miễn dịch ngay từ các tế bào gốc chung cho cả 2 dòng tế bào B
và T nên được gọi là suy giảm miễn dịch nặng phối hợp.
(2) Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng T gồm 2 loại: tổn thương tế bào T ở
cao và rối loạn hoạt hóa của các tế bào T đã trưởng thành.
(3) Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng B gồm 2 loại: tổn thương tế bào B ở cao
và rối loạn quá trình biệt hóa của tế bào B để sản xuất kháng thể dịch thể.
- Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng tế bào thực bào (liên quan đến
cả sự trình diện kháng nguyên) và sản xuất bổ thể.
4
TB mầm
TB lympho mầm
Tiền lympho bào
Lympho B
Lympho T
NK
Kháng thể
Th, Ts, Tc, T
DTH
,

các cytokine
TB mầm dòng hạt
Tiền TB mầm dòng hạt

Các BC hạt
Ưa base
Trung tính
Ưa acid
Tiểu cầu
Hồng cầu
1
3
2
1.1.1. Suy giảm miễn dịch nặng phối hợp SCID (Severed combined
immuno deficiency):
Đây là một nhóm gồm nhiều bệnh phức tạp do có bất thường trong sự
phát triển và biệt hóa của các tế bào lympho vào giai đoạn sớm để thành các
tiền tế bào B và T. Đặc trưng của bệnh này là suy giảm nặng nề về số lượng
các tế bào B và T. Bệnh lần đầu tiên được phát hiện tại Thụy Sĩ. Nguyên nhân
thứ nhất: do di truyền liên kết trên nhiễm sắc thể giới tính X: bệnh xuất hiện ở
con trai nhiều hơn con gái (tỷ lệ 3:1). Nguyên nhân thứ 2: do di truyền lặn,
liên kết với nhiễm sắc thể thường, khoảng 1/50.000 trẻ sinh ra bị SCID [Trích
từ 11]. Có nhiều thể SCID di truyền trên nhiễm sắc thể thường với các cơ chế
phân tử khác nhau:
- Týp 1: do thiếu enzym thoái hóa purin: adenosin desaminase (ADA)
gây tích lũy cơ chất deoxyadenosin là chất gây ngộ độc các lympho bào gốc
làm cho các tế bào này không phân chia được. Trên thế giới chỉ có khoảng
100 ca bệnh SCID týp 1. Trên lâm sàng người ta điều trị bệnh bằng cách tiêm
định kỳ enzym ADA. Tuy nhiên enzym ADA phải được gắn trên một giá trơ
để bền vững hơn trước khi đưa vào cơ thể.

- Týp 2: Không có lympho bào (alymphocytosis). Nghiên cứu trên chuột
nhắt thấy cơ chế bệnh sinh là do rối loạn quá trình tái tổ hợp gen xảy trong
quá trình biệt húa cỏc tế bào tiền thân của lympho bào để trở thành tế bào B
và T, dẫn đến rối loạn sự sắp xếp lại gen trong quá trình chín của lympho bào B
và T để đảm bảo tính đa dạng của TCR (T cell Receptor) và sIg (Surface
Immunoglobulin). Trên người cơ chế bệnh sinh còn chưa được hiểu rõ và có ý
kiến cho rằng bệnh cũng cú cựng cơ chế trên.
- Ngoài ra cũn cú cỏc thể SCID khác nữa như: giảm biểu lộ phân tử
MHC lớp II ở các tế bào có thẩm quyền miễn dịch như lympho B, đại thực
bào…nờn bệnh còn được gọi là hội chứng tế bào lympho trần trụi, hậu quả là
5
thiếu sót trong sự trình diện kháng nguyên do giảm biểu lộ phõn tử MHC. Thể
SCID nữa là do đột biến chuỗi gamma tại receptor của IL-2, ở lympho T
CD3

do rối loạn chuyển tín hiệu di truyền bên trong tế bào nên tế bào lympho T
CD3
không hoạt hoá và phõn chuyển, làm giảm sản xuất cytokin [11, 19, 21, 29].
Điều trị bệnh SCID:
- Ghép tủy xương: đây là cách tốt nhất, kết quả tốt khi có sự hòa hợp mô
và hòa hợp cả hệ ABO giữa người cho và người nhận. Phản ứng thải loại
mảnh ghép rất nguy hiểm, có thể gây tử vong vì cơ thể nhận mảnh ghép bị
suy giảm miễn dịch.
- Truyền máu nhiều lần, tuy nhiên biện pháp này khó duy trì lâu dài và
vẫn có phản ứng giống như thải loại mảnh ghép.
- Truyền hồng cầu bình thường chứa enzym ADA cho các thể bệnh
SCID thiếu enzym ADA.
1.1.2. Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng lympho T
• Hội chứng Di George
Hội chứng này chiếm khoảng 20% trong các bệnh lý suy giảm miễn

dịch bẩm sinh. Nguyên nhân là do tình trạng bệnh lý của phôi: không phát
triển túi hầu thứ 3 và thứ 4. Cỏc tỳi hầu này chịu trách nhiệm về sự phát triển
và hình thành của tuyến ức và tuyến cận giáp vào tuần thứ 6 và thứ 8. Ngoài
ra cỏc tỳi hầu này còn chịu trách nhiệm về sự phát triển của cung động mạch
chủ, môi, tai vào tuần thứ 12. Vì vậy, hiếm gặp hội chứng Di George ở thể
điển hình, thường gặp ở thể không điển hình. Bệnh nhi có thể bị giảm sản
tuyến ức, suy giảm tuyến cận giáp (thường bị co giật do giảm calci huyết), có
thể kèm theo các triệu chứng dị tật ở tim, mặt, tai… các rối loạn phát triển
của tuyến ức biểu hiện chủ yếu là rối loạn môi trường biệt hóa tế bào lympho
T. Hậu quả là số lượng tế bào T có thể bình thường hoặc giảm, chức năng tế
bào T giảm do giảm biểu lộ TCR/CD3, giảm sản xuất cytokin. Dòng tế bào
6
lympho B không bị ảnh hưởng nên đáp ứng miễn dịch dịch thể gần như bình
thường hoặc có thể giảm do không có sự hỗ trợ của Th. Đáp ứng miễn dịch
qua trung gian tế bào bị ảnh hưởng nặng nề có khi không có đáp ứng [33, 37,
42, 45, 49].
Điều trị:
- Ghép tuyến ức phụi cú cựng kháng nguyên hòa hợp mô. Tiêm
truyền tế bào hoặc mảnh ghép tuyến ức có đường kớng 1mm trong cơ thẳng
bụng hoặc trong phúc mạc. Dùng thuốc và các biện pháp hữu hiệu tránh phản
ứng mảnh ghép chống túc chủ.
- Tiêm tinh chất tuyến ức thymosin để biệt hóa tế bào gốc thành tế
bào T.
- Điều chỉnh calci huyết, điều trị các dị tật tim và mặt
- Điều trị các nhiễm nấm, virus, lao mắc phải.
• Hội chứng Nezelof: do vô sản tuyến ức, không kèm theo vô sản tuyến
cận giáp. Biểu hiện lâm sàng của bệnh thường nhẹ hơn hội chứng Di
George: không có các rối loại calci huyết. Do không có đáp ứng miễn
dịch qua trung gian tế bào nên trẻ thường bị nhiễm nấm, virus. Điều
trị có hiệu quả khi ghép tuyến ức hoặc tiêm tinh chất tuyến ức [2, 11,

29, 51].
• Một số suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng lympho T khác:
- Hội chứng Hong và Good: rất hiếm gặp, có thiểu sản tuyến ức và
tuyến giáp trạng. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là suy giảm miễn dịch tế bào:
giảm số lượng và chức năng tế bào T trong khi tế bào B bình thường.
- Khuyết tật cấu trúc TCR: phức hợp CD3/TCR bị khuyết tật do đột
biến chuỗi gamma ở CD3 dẫn đến ảnh hưởng đến một số protein chuyển tin
như làm rối loạn sự phosphoryl hóa, vận chuyển calci nội bào…
7
- Giảm sản suất IL2, IL4 và INF-gamma: do đột biến tại tế bào hoặc
tại receptor của chúng.
1.1.3. Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng lympho B
Dòng tế bào lympho B chịu trách nhiệm đáp ứng miễn dịch dịch thể, nên
khi có rối loạn quá trình biệt hoá và phát triển của dòng này sẽ làm giảm nồng
độ hoặc giảm chất lượng các globulin trong máu. Biểu hiện lâm sàng là bệnh
nhân bị nhiễm khuẩn tái lại nhiều lần bởi các vi khuẩn sinh mủ (các cầu
khuẩn Gram +) [2, 4, 18, 22].
• Bệnh Bruton:
Bệnh do Bruton phát hiện ra năm 1952, gọi là thể không có gamma
globulin trong máu, di truyền liên kết nhiễm sắc thể giới tính X và trên cả
nhiễm sắc thể thường. Bệnh chiếm 70% bệnh nhân suy giảm miễn dịch bẩm
sinh. Nếu thể bệnh gắn với nhiễm sắc thể X, bệnh thường xảy ra trên trẻ em
trai, xuất hiện sớm. Nếu di truyền trên nhiễm sắc thể thường thì bệnh xuất
hiện trên cả 2 giới, thường ở giai đoạn muộn. Sự biệt hóa của tế bào B bị rối
loạn ở giai đoạn sớm tiền tế bào B, bệnh đặc trưng bằng các xét nghiệm
không có lympho bào B trong máu và trong mô lympho, hạch bạch huyết nhỏ,
không có amidan, trong huyết thanh không có mọi loại Ig.
Phân loại: có 2 týp bệnh Bruton
- Týp 1: Suy giảm tế bào B kèm suy giảm toàn bộ các Ig: IgA, IgM,
IgG, IgE. Nguyên nhân do thiếu gen mã hóa để tổng hợp các Ig

- Týp 2: Suy giảm tế bào B kèm suy giảm các Ig: IgA, IgG, IgE
nhưng tăng IgM. Nguyên nhân là do rối loạn gen điều hòa và việc tổng hợp,
vận chuyển Ig.
Điều trị:
Điều trị bệnh Bruton bằng kháng sinh thường không có hiệu quả. Hiện
nay người ta dùng kháng sinh kết hợp với truyền Ig thụ động. Các chế phẩm
8
Ig thường dùng chủ yếu chứa IgG (99%). Do IgG có thời gian bán thải dài
nên có giá trị phòng một số bệnh nhiễm trùng. Duy trì nồng độ IgG huyết
thanh cao hơn 2g/lớt [11]. Khụng dùng IgA để điều trị do khi đưa IgA bằng
đường tiêm chúng không đến được niêm mạc hệ tiêu hóa, hô hấp nên không
có giá trị phòng và điều trị bệnh. Hơn nữa, bản thân IgA dễ gõy choỏng phản
vệ nên mặc dù thiếu IgA nhưng không có chỉ định dùng IgA cho các bệnh
nhân Bruton [2, 11, 29].
• Bệnh suy giảm tế bào B có liên quan đến chuyển đổi isotyp
Các tế bào B được biệt hóa từ tế bào gốc tại gan phôi, sau đó được
chuyển vào tủy xương. Dòng tế bào B được biệt hóa suốt đời. Trong vi môi
trường tủy xương cỏc nguyờn bào lympho B sắp xếp lại các gen mó húa cho
chuỗi nặng muy, chuỗi nhẹ kappa, chuỗi lamda. Giai đoạn tiền B có IgM
trong nguyên sinh chất, giai đoạn chưa trưởng thành có IgM bề mặt (mIgM),
khi trưởng thành có IgD và IgM. Trong giai đoạn phát triển và biệt hóa của
các tế bào B, các MHC lớp II được biểu lộ, sau đó các tế bào B rời tủy xương
đến các hạch bạch huyết. Tại hạch bạch huyết, các tế bào B khi được kích
thích bởi kháng nguyên chúng sẽ biệt hóa để trở thành tương bào tiết kháng
thể dịch thể đặc hiệu và các tế bào B trí nhớ. Sự biến đổi của các tế bào B chủ
yếu do mất IgD, biểu lộ các gen mã cho các chuỗi …, đồng thời biến dị tại
một số gen tạo ra những thay đổi ở vị trí receptor, làm tăng ỏi tớnh của các
receptor với các kháng nguyên.
Suy giảm IgA
Là một bệnh tương đối phổ biến, trong cộng đồng người da trắng với

tần xuất khoảng 1/700 người và di truyền theo NST 18. Loại suy giảm này
không có triệu chứng biểu hiện ra ngoài nhưng dễ bị nhiễm khuẩn đường hô
hấp và đường ruột và hay thấy xuất hiện bệnh tự mẫn. Xét nghiệm có nồng độ
IgA trong máu thấp (< 50 g/ml) hay không có. Khoảng một nửa bệnh nhân có
9
thể xuất hiện kháng thể chống IgA nờn cú nguy cơ bị sốc khi được truyền
máu hay huyết tương. Điều trị bằng biện pháp miễn dịch cần dè dặt khi phải
tiêm
γ
- globulin. Cơ chế bệnh sinh của tình trạng suy giảm IgA chưa rõ và
có lẽ rất phức tạp. Nguyên nhân có thể do tổn thương ngay bên trong tế bào
(tế bào lympho B có sIgA nhưng không chuyển tiếp nữa) hay do thiếu sự hỗ
trợ bên ngoài (thiếu Th đặc hiệu, thiếu cytokin như TGF-
β
, IL-5). Yếu tố cơ
địa cũng giữ một vai trò quan trọng nhất định. Bệnh nhân hay có haplotyp A1,
B8, DR3 hoặc có thiếu sót gien mã cho C
4
, do đó C
4a
giảm [41, 42, 43, 46,
51].
+ Suy giảm dưới lớp IgG
Một số trường hợp suy giảm IgG thường có kết hợp với suy giảm IgA
hay với bệnh mất điều hoà – gión mạch. Bệnh nhân bị suy giảm IgG có thể
không có triệu chứng gì đặc hiệu, bệnh nhân chỉ bị nhiễm khuẩn sinh mủ, tái
phát nhiều lần, dai dẳng, nặng. Nguyên nhân do thiếu sót ở một dưới lớp như
IgG3 hay phối hợp IgG2 và IgG4. Nồng độ IgG chung vẫn bình thường, một
số trường hợp có tăng IgM. Nếu có kết hợp cả suy giảm IgA là do có đột biến
điểm ở gien mã cho glycoprotein 39 nằm trên NST X [17, 29, 51].

Suy giảm miễn dịch thông thường (CVID = Common variable ImmunoDeficiency).
Bệnh cũn có tên là vô
γ
-globulin huyết muộn (late agamma
globulinemia) hay vô
γ
-globulin huyết mắc phải (acquired agamma
globulinemia). Bệnh thường xuất hiện muộn ở tuổi 20 -30 cả ở nam lẫn nữ
nên tỷ lệ mắc như nhau. Xét nghiệm máu thấy có giảm cả 3 loại IgG, IgA và
IgM. Số lượng các tế bào lympho B thay đổi không rõ rệt nhưng chức năng
của chúng có thay đổi hoặc có kết hợp với sự thay đổi của tế bào lympho T.
Điều trị bằng biện pháp miễn dịch là tiêm gamma-globulin, liều lượng tuỳ
nồng độ Ig trong máu và mức độ biểu hiện lâm sàng [2, 4, 11, 29, 51].
1.1.4. Suy giảm miễn dịch phối hợp
10
Suy giảm miễn dịch loại này, người ta thấy có thay đổi cả về tế bào
lympho T lẫn lympho B kết hợp với tổn thương ở nhiều cơ quan khác.
11
*Tật mất điều hòa – gión mạch (AT = atxia telangiectasia)
Bệnh còn gọi là hội chứng Louis – Bar. Bệnh do di truyền liên kết với
NST thường kiểu lặn. Bệnh gây rối loạn nhiều hệ thống: thần kinh, mạch
máu, da, niêm mạc, tâm thần, nội tiết, suy giảm miễn dịch tế bào và miễn dịch
dịch thể. Người bệnh xuất hiện hiện tượng mất điều hoà vận động do tổn
thương tiểu não, dáng đi khụng bỡnh thường và có gión mạch tại da và mắt,
ngoài ra cũn cú các triệu chứng chậm phát triển về thần kinh – tâm thần, rối
loạn phát triển sinh dục, giảm tế bào T, giảm các globulin IgG2, IgG4 và IgA.
Nguyên nhân của những biểu hiện trên là do thiếu sót khả năng tự hàn gắn
AND, các NST đặc biệt ở NST7 và 14 tại vựng các gien mã cho TCR và Ig
thường bị góy. Các bệnh nhân này rất nhạy với tia xạ và dễ bị u lympho. Mức
suy giảm tăng dần theo thời gian của bệnh nhất là khi có bội nhiễm kèm theo

[16, 22,29, 51].
Điều trị : chủ yếu là điều trị triệu chứng, chưa có phương pháp điều trị
đặc hiệu. Ghép tuyến ức cho kết quả khả quan.
* Hội chứng suy giảm miễn dịch phối hợp Wiskott – Aldrich
Nguyên nhân : Bệnh được phát hiện lần đầu tiên năm 1954, do rối loạn
di truyền liên kết giới tính X, đặc trưng bằng suy giảm miễn dịch cả tế bào và
dịch thể. Ngoài ra cũn kốm theo giảm số lượng tiểu cầu (chảy máu cam, chảy
máu dưới da và đường tiờu hoỏ), chàm và có thể có ung thư hệ lympho, bệnh
nhân dễ bị nhiễm khuẩn. Bất thường miễn dịch sớm thấy nhất là không có khả
năng sản xuất kháng thể khi được kích thích bằng polysaccharid. Tình trạng
giảm tế bào lympho B, T ngày càng nặng.
Năm 1981, Parkman R. chứng minh rằng bệnh này do rối loạn sự biệt
hoá của phân tử CD43 ở màng tế bào lympho: không gắn được phân tử đa
đường vào protein CD43 nên tế bào lympho không còn chức năng miễn dịch.
12
Tác giả khác lại cho rằng bệnh là do rối loạn sự biểu lộ các phân tử MHC lớp
II cần cho hoạt tính của các tế bào T
CD4+
Gatti R. và Good đã chứng minh rằng tỷ lệ ung thư ở bệnh nhân suy
giảm miễn dịch bẩm sinh tăng cao hơn 10000 lần so với quần thể người có hệ
miễn dịch bình thường cùng tuổi [trích từ 11]. Có nhiều giả thuyết để giải
thích đó là do sự kích thích nhiều lần của vi khuẩn trên hệ miễn dịch làm tăng
phân bào T và B, tạo nguy cơ đột biến gen và làm hoạt hoỏ cỏc oncogen hoặc
làm giảm hoạt tính miễn dịch của các tế bào T độc và tế bào NK do đó làm
tăng xuất hiện ung thư [11, 13, 16, 29].
Việc chẩn đoán hội chứng Wiskott – Aldrich đôi khi nhầm với bệnh tự
miễn (collagenose) hay ung thư lympho liờn vừng.
Điều trị : có thể cắt lỏch, ghộp tuỷ xương. Điều trị chàm và điều trị dự
phòng nhiễm khuẩn bằng kháng sinh thích hợp.
* Giảm sự bỏm dính của bạch cầu (LAD = Leukocyte Adhesion

Deficiency).
Bệnh do thiếu sót sự biểu lộ các protein màng (phân tử kết dính)
thuộc dưới họ
β
2 (CD18) làm cho bạch cầu đa nhân và đơn nhõn khụng
bỏm được vào nội mô thành mạch để thoát ra ngoài tới ổ viêm. Bệnh này
thuộc di truyền lặn NST 21, có những biểu hiện đặc trưng là bệnh nhi chậm
rụng rốn, hay viêm dây rốn và nhiễm khuẩn không có mủ nhưng vẫn có
phản ứng tăng bạch cầu.
Các tình trạng suy giảm miễn dịch phối hợp cần được chẩn đoán sớm
để có phương thức điều trị thích hợp. Chẩn đoán sớm cần điều tra tốt bệnh sử
của những người có liên quan mật thiết về mặt gien học, như bố mẹ anh chị
em ruột và xét nghiệm cần thiết về mặt miễn dịch học. Điều trị ghép tuỷ
xương cựng nhúm HLA là tốt nhất. Kết quả lâu dài là 90% cho trường hợp
13
tương đồng HLA và 60% cho trường hợp chỉ có những hoà hợp mô chính [2,
11, 29, 51].
1.1.5. Suy giảm bẩm sinh tế bào thực bào và bổ thể.
Tế bào thực bào và bổ thể giữ vai trò quan trọng trong cả miễn dịch tự
nhiên lẫn miễn dịch thu được. Cho nên những thiếu sót bẩm sinh sẽ dẫn đến
suy giảm miễn dịch với hậu quả cuối cùng là nhiễm khuẩn. Có rất nhiều dạng
khác nhau mà cơ chế bệnh sinh chưa rõ.
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh dòng tế bào thực bào chỉ có khoảng 10%.
Nguyên nhõn là do bệnh lý di truyền qua gen lặn nhiễm sắc thể thường gõy
nên phong bế quá trình biệt hoá các tế bào tiền bạch cầu nên không có tuỷ bào
(myelocyte), giảm hoặc mất chức năng thực bào (đại thực bào hay tiểu thực
bào) và phá huỷ các vi sinh vật, gõy nên các ổ áp xe ở các cơ quan có nhiều
loại tế bào này như: gan, phổi, hạch. Vì vậy có biểu hiện cận lõm sàng là giảm
số lượng hay không có bạch cầu hạt trong mỏu ngoại vi. Welte K đã chứng
minh rằng nếu tiêm G – CSF (granulocyte – colony stimulating factor) hàng

ngày cho các bệnh nhân này thì sự sản xuất bạch cầu hạt sẽ phục hồi, ngay cả
khi nồng độ G – CSF ở bệnh nhân bình thường [trích từ 11]. Theo Springer
khi màng các thực bào thiếu các phân tử kết dính (adhesive molecules) thỡ
cỏc thực bào khụng bỏm dính vào các tế bào nội mạc mạch được do đó không
thể di chuyển qua màng mao mạch để đi đến ổ nhiễm khuẩn, bệnh nhân sẽ
nhậy cảm với nhiễm khuẩn, các bệnh nhân này không thải ghép dị gen khi
ghép tuỷ xương. Bệnh u hạt nhiễm khuẩn mạn tính (chronic septic
granulocytosis) được mô tả từ năm 1957 là do các tế bào thực bào không có
khả năng phá huỷ vi khuẩn hay nấm tuy khả năng thực bào vẫn bình thường.
Nguyên nhân do các tế bào thực bào không sản xuất được các gốc tự do hoạt
động của oxy để diệt khuẩn nội bào, ít hơn 1% là do thiếu các thành phần của
hệ thống bổ thể.
14
+ Thể giảm bạch cầu trung tính kinh diễn bẩm sinh mà đặc trưng do
loại bạch cầu này ớt phõn triển, ít biệt hoá và cũng ít ra khỏi tuỷ xương. Bệnh
nhân hay bị nhiễm tụ cầu vàng.
+ Thể bạch cầu lưới giảm hoá ứng động và di chuyển, có lẽ do thiếu sót
về phân bố actin hình thành bộ xương trong tế bào viêm
+ Thể do thiếu myeloperoxydase nờn khụng hình thành được các dẫn
xuất oxy với halogen do đó dễ bị nhiễm khuẩn. Bệnh u hạt kinh diễn cũng có
cơ chế rối loạn hình thành các dẫn xuất oxy nhưng là bệnh rất hiếm.
+ Bệnh Chediak Higashi là một thể di truyền theo kiểu lặn NST thường
có liên kết với chứng bạch tạng, sợ ánh sáng, chậm phát triển về tinh thần và
có rối loạn thần kinh ngoại vi. Tế bào NK cũng giảm, bạch cầu trung tính có
những hốc thực bào khổng lồ mà lại không nuốt và tiêu diệt nổi các vi khuẩn.
Những tế bào có hốc này tuỳ theo khu trú ở bộ phận nào thì gây ra những
triệu chứng kể trên ở nơi đó. Tổn thương gien thấy ở NST 1 tác động lờn hoỏ
ứng động và quá trình mất hạt.
+ Thiếu hụt bổ thể: có thể thiếu hụt một phần hay toàn bộ các cấu thành
của bổ thể do di truyền hay đột biến gien.

Thiếu hụt riêng từng cấu thành C2, C3, C4, C5, C6, C7, C8 và C9 đều là bệnh
hiếm di truyền qua NST thường, kiểu lặn. Ở thể đồng hợp tử, nồng độ bổ thể
mỗi thứ trong huyết thanh bệnh nhân không bằng 1% của người thường và
bằng nửa khi là dị hợp tử. Ví dụ như khi tổn thương C1q C1r C1s C2 C3 C4 ở
đường cũ gây ra các bệnh Luput ban đỏ hệ thống, viêm cầu thận và nhiễm
khuẩn Neisseiria và nhiễm khuẩn sinh mủ….
- Thiếu C2 dễ bị bệnh có phức hợp miễn dịch hơn, đặc biệt là bệnh
Luput ban đỏ.
- Thiếu C3, bệnh nhân dễ mắc đi mắc lại nhiễm khuẩn sinh mủ.
15
- Thiếu C4 có thể là do không biểu lộ hoặc đột biến gen mã cho C
4

cũng dễ xuất hiện phức hợp miễn dịch gây bệnh đôi khi nguy hiểm. Điều tra ở
người da trắng cho thấy có tới 30% là do không sao chép một hay hai trong 4
gien của C4. Thiếu sót alen C4B có thể kéo theo thiếu sót một gien mã cho
cytochrom P450 21 hydroxylase nằm gần kề đó. Cho nên khi là di truyền
đồng hợp tử thì có thể sinh ra tăng sản thượng thận.
- Thiếu C5, C6 hay C7 thì dễ bị nhiễm đi nhiễm lại Neisseria.
- Thiếu C8 tại chuỗi
α

γ
hay gặp ở người da đen và tại chuỗi
β

người da trắng. Cả hai thể đều dễ bị nhiễm Neisseria.
- Thiếu C9 không có biểu hiện ra ngoài và tới 1/40 người Nhật là dị hợp
tử với thiếu hụt này.
Điều trị : với bệnh suy giảm thực bào thì chỉ có ghép tuỷ xương mới có

thể kéo dài được đời sống. Điều trị suy giảm bổ thể thỡ dựng kháng sinh thích
hợp và điều trị các biểu hiện lâm sàng phối hợp.
* Suy giảm miễn dịch trong tật bẩm sinh Down do 3 nhiễm sắc thể 21.
Tật bẩm sinh Down do 3 nhiễm sắc thể 21 là tật hay gặp (khoảng
1/1000 ca đẻ). Đó là hậu quả bất thường trong quá trình phân chia tế bào.
Những đứa trẻ bị dị tật này thường có hội chứng chóng già và hay bị nhiễm
khuẩn đường hô hấp và chu nha viờm. Dự cú được điều trị bằng kháng sinh,
tỷ lệ tử vong vẫn rất cao. Nguyên nhân do có suy giảm dần các chức năng của
tế bào lympho T, tuyến ức thoái triển sớm, hay thấy xuất hiện một số tự
kháng thể (kháng thể chống globulin, chống peroxydase) thậm chí một số
bệnh tự miễn. Chức năng thực bào và diệt khuẩn của bạch cầu trung tính cũng
suy giảm. Bệnh nhân dễ mắc bệnh ác tính thuộc sự phân triển dòng lympho
như leukose. Đáp ứng với các loại tiêm chủng vẫn bình thường cho nên cần
được tiêm chủng đầy đủ như các trẻ em khác.
16
Tật Down là do thừa nhiễm sắc thể nên có quá nhiều các gen mã cho
receptor IFN
α

β
, chuỗi
β
của một phân tử bỏm dớnh (CD18), của
superoxyd dismutase và 4 enzym chịu trách nhiệm trong chuyển hoá purin,
gien mã cho protein A4 trong chất amyloid não.
1.1.6. Kết luận về suy giảm miễn dịch bẩm sinh:
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh là bệnh năng, việc điều trị bệnh và chăm
sóc rất khó khăn. Trẻ em bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh cần phải được nuôi
dưỡng trong các bốc có không khí vô trùng, thức ăn nuôi trẻ cũng phải vô
trùng. Ngoài điều trị nguyên nhân và điều trị theo cơ chế bệnh sinh, chủ

yếu là điều trị thay thế, với kết hợp kháng sinh khi cần và điều trị các triệu
chứng lâm sàng phối hợp.
Ngày nay người ta bắt đầu tìm hiểu các cơ chế và các bệnh lý gen gây
ra suy giảm miễn dịch bẩm sinh để cho phép trong tương lai sửa chữa các
khuyết tật về gen bằng cách chuyển gen bình thường vào thay thế. Các thí
nghiệm về chuyển gen ADA vào các tế bào lympho bị bệnh của hai tác giả
Mỹ là Blaese và Anderson W.P cho hai bệnh nhân SCID: tiờm lại cho bệnh
nhân các tế bào lympho “ đã sửa chữa” thấy bệnh nhân có biểu lộ gen ADA
bình thường. Tuy nhiên cũn quỏ sớm để khẳng định được thành tựu của biện
pháp điều trị này trên bệnh nhân thiếu enzym ADA cũng như liệu pháp gen
cho các bệnh nhân suy giảm miễn dịch bẩm sinh khác [2, 4, 11, 29, 51].
1.2. Suy giảm miễn dịch mắc phải:
Đây là loại bệnh lý rất thường gặp ở cả các nước đang phát triển và phát
triển. Dựa vào nguyên nhân gây ra tình trạng suy giảm miễn dịch người ta
chia ra một số nhúm chớnh sau:
- Suy giảm miễn dịch do suy dinh dưỡng.
- Suy giảm miễn dịch do nhiễm vi sinh vật: nhiễm vi khuẩn, nấm, kí
sinh trùng, virus. Đặc biệt suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV/AIDS.
17
- Suy giảm miễn dịch do bệnh lý: các bệnh mạn tính kéo dài, đặc biệt
là bệnh ung thư.
- Suy giảm miễn dịch do phóng xạ.
- Suy giảm miễn dịch do thuốc hoặc hóa chất.
- Suy giảm miễn dịch khác như: tuổi già, chấn thương
1.2.1 Suy giảm miễn dịch trong ung thư
Ung thư la một bệnh ngày càng phổ biến và gia tăng trên toàn thế giới.
Về mặt tế bào học thỡ cỏc tế bào ung thư bắt nguồn từ các tế bào bình thường
của cơ thể nhưng vì một nguyên nhân nào đó các tế bào này bị đột biến và
phát triển vô hạn định làm cơ thể không thể kiểm soát được nữa. Về mặt gen
học, sự đột biến trong quá trình phân bào là hiện tượng bình thường, chỳng

luụn bị loại trừ theo cơ chế miễn dịch. Như vậy khi bị mắc ung có thể do hệ
miễn dịch của cơ thể đã bị suy giảm hoặc bản thân bệnh ung thư làm hệ miễn
dịch bị suy yếu hơn.
- Đáp ứng miễn dịch trong bệnh ung thư
Kháng nguyên ung thư gây đáp ứng miễn dịch của vật chủ cả về miễn
dịch dịch thể cả miễn dịch qua trung gian tế bào. Việc tìm hiểu cơ chế này
trờn cỏc súc vật thí nghiệm không những soi sáng cơ chế của các đáp ứng
miễn dịch trên cơ thể động vật mà còn cho phép tìm hiểu rõ hơn đáp ứng đú
trờn người. Hiện nay kết quả nghiên cứu đáp ứng miễn dịch trong bệnh ung
thư trên lâm sàng chưa nhiều song là một phương hướng nghiên cứu có nhiều
hứa hẹn trong tương lai.
* Đáp ứng miễn dịch dịch thể trong ung thư
Hiện nay chưa phát hiện được kháng thể dịch thể đặc hiệu có thể ngăn
cản tế bào u phát triển. Trong thực nghiệm có gây được kháng thể dịch thể
chống tế bào u nhưng phải có sự hoạt hoá của bổ thể thì tế bào u mới bị tiêu
diệt. Hay nói cách khác là đáp ứng miễn dịch dịch thể không tiêu diệt trực tiếp
18
các tế bào ung thư mà chỉ có vai trò hỗ trợ đáp ứng miễn dịch qua trung gian
tế bào hoặc phải nhờ đến vai trò của bổ thể.
Trên thực nghiệm Casey đã phát hiện ra loại kháng thể không ức chế sự
phát triển của khối u mà ngược lại làm nó phát triển mạnh mẽ hơn. Hiện
tượng này có thể truyền thụ động bằng huyết thanh được. Cho nên mới có tên
gọi là kháng thể tạo thuận (enhancing antibodies). Sau này người ta lại thấy
kháng thể ấy kết hợp với kháng nguyên trên mặt tế bào u làm cho tế bào Tc
khụng còn tác dụng tiêu diệt được, nên nú còn có tên là kháng thể phong bế
(blocking antibodies).
Trong một số bệnh ung thư người ta thấy có liên quan với virus như ung
thư vòm mũi họng với Epstein Barr Virus (EBV) vì trong máu bệnh nhân ung
thư vòm mũi họng có nhiều kháng thể dịnh thể đặc hiệu với hiệu giá cao
chống lại một trong nhiều thành phần của virus như IgA, IgG/VCA (Viral

capsid antigen, MA (Membrane antigen), EBNA (Epstein barr nuclear
antigen). Các kháng thể này có giá trị trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh
không những trong bệnh ung thư vòm họng mà cũn trong một số bệnh lý khác
như: ung thư gan nguyên phát, dị dạng ống thần kinh thai nhi có kháng thể
chống kháng nguyên phôi (AFP = Alfa feto protein) [34, 51]. Đó là tiên
lượng tốt để chẩn đoán và điều trị bệnh. Trong một số ung thư khác xuất hiện
các kháng nguyên ung thư phôi mà muốn phát hiện phải tạo ra loại kháng thể
chống khác loài.
19
Hình 3 : Sự tương tác giữa đáp ứng miễn dịch đặc hiệu và
không đặc hiệu với tế bào ung thư
* Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào là đáp ứng chớnh trong
chống các kháng nguyên gắn trên bề mặt tế bào hoặc là thành phần của tế
bào, đó là những tế bào nhiễm virus hoặc tế bào ung thư có 2 loại: miễn
dịch đặc hiệu và không đặc hiệu.
- Miễn dịch tế bào không đặc hiệu.
Có nhiều bằng chứng cho thấy là có miễn dịch tự nhiên chống ung thư.
Trên lâm sàng có những ca ung thư tự thoát lui. Trên chuột loại ung thư được
gây nên bằng các chất như LPS (từ vỏ vi khuẩn Gram âm), MDP (từ vỏ trực
khuẩn lao) thì khối u có thể tự thoái triển. Có 3 loại tế bào tham gia vào đề
kháng tự nhiên chống ung thư.
Tế diệt tự nhiên NK
Trên in vitro người ta thấy chúng có khả năng ly giải tế bào ung thư nuôi cấy
do chúng tiết ra chất perforin chọc thủng được màng tế bào đích. Hoạt động
20
Miễn dịch tự nhiên
Miễn dịch đặc hiệu
Ức chế
Kích thích

TB ung thư
TB ung
thư
của chúng mạnh đối với tế bào cú ớt biểu lộ hoặc không MHC như tế bào u
hoặc các tế bào bị nhiễm virus. Khả năng tiêu diệt các tế bào u và các tế bào
ung thư của NK được tăng cường bởi một số cytokine do tế bào lympho và
đại thực bào tiết ra như IL-2, TNF… Trên giống chuột nude mặc dù có suy
giảm miễn dịch bẩm sinh nhưng có thể do chúng lại có số lượng tế bào NK
bình thường hay tăng nên tỷ lệ ung thư tự phát không cao hơn chuột bình
thường khác [2, 11, 51].
Tế bào LAK (lymphokine activating killer cell)
Các tế bào LAK tăng khi tế bào lympho được cytokin kích thích, trong
đó có IL-2, cũng là loại có khả năng ly giải một số tế bào ung thư gấp nhiều
lần so với NK.
Đại thực bào:
Khi được hoạt hoá bởi những chất kích thích như cytokine hay các chất
từ vi khuẩn (LPS, MDP) thì có thể ly giải các tế bào ung thư trên in vitro. Cơ
chế của phản ứng này chưa được rừ nờn đó có nhiều giả thiết khác nhau: có
thể là tế bào ung thư đã có kháng thể đặc hiệu gắn vào tạo nên phức hợp miễn
dịch, là đối tượng để đại thực bào thực bào (giải phóng các enzym lysosom,
sản xuất các superoxyd…mà tế bào ung thư thường lại ít có enzym superoxyd
dismutase chống lại). Quan trọng nhất có thể là cytokin của đại thực bào tiết
ra TNFα. Cơ chế tác dụng có lẽ đã gây ra một hiện tượng Shwartman tại chỗ
làm cho khối u không có máu tới nuôi dưỡng (hiện tượng shwatzman : khi
tiêm LPS cho chuột tại chỗ thỡ gõy tắc mạch, hoại tử). Hoặc nếu kháng thể
gắn lên kháng nguyên ở tế bào ung thư thuộc lớp IgG thì quá trình hoạt hoá
xẩy ra và làm ly giải các tế bào mang kháng nguyên (tế bào ung thư)
Bạch cầu toan tính:
Khi được hoạt hoá bởi cytokine mà mạnh nhất là IL-5 cũng có thể giết
nhiều loại ký sinh trùng và cả tế bào ung thư.

- Miễn dịch tế bào đặc hiệu
21
Hình4 : Vai trò của T
CD4+
trong điều hòa miễn dịch và
trong bệnh ung thư
Theo nguyên lý việc gây nên đáp ứng miễn dịch đặc hiệu đòi hỏi phải có
sự hoạt hoỏ cỏc tế bào lympho Th CD4+ bởi những tế bào trình diện kháng
nguyên có mang kháng nguyên ung thư kết hợp với phân tử MHC lớp II cùng
với các cytokine tương ứng (IL-2, IFNγ…). Còn sự biệt hoá và phát triển tế
bào lympho Tc CD8+ kháng nguyên lại phải được trình diện với các phân tử
MCH lớp I với các cytokine tương ứng (IL- 2, 4, 12…) [23, 24, 32, 33, 38].
Trong ung thư thực nghiệm do virus, tình trạng miễn dịch mới có thể
truyền cho con chuột mới bằng tế bào, những tế bào đó vừa mang tính chất
đặc hiệu vừa có cả tính chất trí nhớ nữa. Những tế bào có hiệu năng chủ yếu
là tế bào lympho Tc gây ly giải (cytolytic T lymphocytes) phần lớn là T
CD8+
(hạn chế bởi MHC lớp I) [16, 23, 33, 35, 50].
Ở người rất ít khi phát hiện được những tế bào lympho Tc độc với
những tế bào ung thư của bản thân mà khi có cũng không có liên quan tới sự
phát triển của tế bào bệnh. Cụ thể chỉ ở những bệnh nhân bị carcinoma hay
melanoma vào thời kỳ cuối, trong máu ngoại vi mới thấy xuất hiện lympho
bào T ly giải được tế bào u. Đã xác định được là những tế bào thâm nhiễm
22
Bình thường
Bệnh tự miễn
Ung thư
Điều hoà miễn dịch
quanh khối u phần lớn là lympho bào T cũng có khả năng tiêu diệt các tế bào
ung thư. Tuy nhiên trong một số trường hợp tế bào ung có khả năng thoát

khỏi đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
* Sự thoát khỏi đáp ứng miễn dịch đặc hiệu của ung thư.
Cơ thể có đáp ứng miễn dịch thì làm sao tổ chức ung thư lại thoát khỏi
đáp ứng miễn dịch ấy, có nhiều giả thiết đã được đưa ra.
Trước hết phải kể đến trọng lượng của khối ung thư, ban đầu khối u cũn
quá nhỏ nên không đủ khả năng sinh kháng thể, tương ứng với tình trạng
dung nạp miễn dịch liều thấp. Khi khối u lớn hơn phát triển quá nhanh thì
kháng nguyên lại quá nhiều nên sinh ra dung nạp liều cao. Khi ấy chúng cũng
sản xuất ra nhiều yếu tố ức chế miễn dịch ví dụ như TGFβ.
Một số ung thư lại biểu lộ quá mức gien chống lại quá trình chết theo
chương trình (apoptosis). Trong u lympho burkitt thấy xuất hiện trên bề mặt
những phân tử Fas/apo1 (do oncogien tương ứng sản xuất ra) có tính năng
chống lại sự ly giải tế bào u với kháng thể chống Fas.
Một số tế bào ung thư giảm biểu lộ các phân tử MHC, các phân tử bỏm
dớnh do đó không hoạt hoá được Tc, nhưng lại giúp cho NK tiếp cận được với tế
bào u. Đó là trường hợp các tế bào dạng lympho thấy trong u lympho burkitt.
Giả thuyết cuối cùng tế bào ung thư có thể luôn luôn thay đổi khỏng
nguyờn nhờ ở sự đột biến điểm hay xảy ra. Do đó một mặt chúng thoát khỏi
sự kiểm soát của các tế bào có thẩm quyền miễn dịch mặt khác chúng trở nên
ác tính hơn nhiều.
- Phòng bệnh và điều trị ung thư bằng biện pháp miễn dịch
Do chưa xác định một cách cụ thể các kháng nguyên ung thư nên
việc phòng bệnh và điều trị bằng các biện pháp miễn dịch chưa có hiệu
quả cao.
* Phòng bệnh miễn dịch đối với ung thư.
Đối với các loại ung thư cú liờn quan đến virus, biện pháp phòng bệnh
hữu hiệu nhất là tìm cách tiêm phòng vacxin chống lại virus. Cho đến nay
mới chỉ có tiêm phòng chống virus viêm gan B và vacin chống ung thư cổ tử
cung là có kết quả nhất. Những vacxin chống EBV (phòng u lympho Burkitt
23

và ung thu vòm họng) chống HTLV-1 (phòng leukose kinh dòng T) còn đang
được nghiên cứu. Cũng có hướng nghiên cứu trực tiếp các kháng nguyên ung
thư khác như trong melanoma.
* Điều trị miễn dịch đối với ung thư.
Điều trị miễn dịch có nhiều hướng nhưng vẫn đang còn thời kỳ thử
nghiệm. Các kháng thể đơn dòng đặc hiệu thì vẫn thuộc loại khác loài nên
biến chứng do gây mẫn cảm dị loài còn nghiêm trọng hơn là tác dụng diệt tế
bào u.
Nhiều tác giả sử dụng các cytokin nhưng kết quả thì chưa rõ nhưng phản
ứng toàn thân rất mạnh mẽ nhiều khi phải bỏ. INFα đã được dùng trong
popilloma, leukose, IL-2 trong adenocarcinoma và melanoma đã tạo được
những thời kỳ thoái lui kéo dài. Rosenberg lần đầu tiên dùng IL-2 trên ex-vivo
nghĩa là ủ tế bào lympho của bệnh nhân với cytokine ấy ngoài cơ thể tạo ra
LAK, sau tiêm trả lại cho bệnh nhân thì ung thư thu nhỏ lại [2, 11, 51].
Trong u lympho một phương pháp điều trị có nhiều hứa hẹn là tự ghép
tế bào tuỷ xương và tế bào máu cuống rốn. Chọn lúc bệnh thoái lui tự nhiên,
thì lấy tuỷ xương cất trong đông lạnh sâu, sau đó dùng tia xạ với liều gây
chết, các tế bào ung thư ngoại vi sẽ bị tiêu diệt hết, khi ấy mới truyền lại
lượng tế bào gốc dự trữ cho bệnh nhân. Hoặc dùng tế bào máu cuống rốn
truyền cho bệnh nhân. Các tế bào này có thể giúp cơ thể hồi phục hoàn toàn
nhất là nếu chúng được sử lý trước để chỉ có tế bào gốc mới được truyền vào.
Một hướng mới đang được chú ý là tác dụng ngay vào chỗ mà quá trình phát
triển bị phong bế nhằm phục hồi lại quá trình biệt hóa tế bào. Đó là dùng các
chất chống oxyhúa [39].
1.2.2. Suy giảm miễn dịch trong nhiễm HIV/AIDS
Nhiễm HIV/AIDS là bệnh thời sự của thế kỷ và trên toàn thế giới. Bệnh
AIDS do retrovirus HIV-1 hay HIV-2 gây ra. HIV có ái lực cao với phân tử
CD4 và đồng thụ thể (Co - receptor) như CXCR4 cú trờn cỏc tế bào có thẩm
quyền miễn dịch chủ yếu là tế bào T
CD4+

và đại thực bào. Thời kỳ ủ bệnh
thường không có triệu chứng. Diễn biến lâm sàng của quá trình nhiễm HIV
24
phản ánh sự tương tác phức tạp giữa tác động của virus trên chức năng của tế
bào có thẩm quyền miễn dịch và trên đáp ứng miễn dich của vật chủ.

Hình 5: Cấu trúc của HIV
HIV có thể xõm nhập và nhõn lên ở nhiều loại tế bào. Các tế bào này
đều có phõn tử tiếp nhận HIV như CD4. Một số tế bào có thể tiếp nhận gp120
của HIV. Các loại tế bào đích của HIV được chia làm 5 nhúm lớn:
- Các tế bào máu và bạch huyết: lympho T
CD4+
, monocyte, macrophage,
lympho B (thường đã có một virus khác gõy nhiễm như Epstein-Barr), tế bào
đệm gai (dendritic cell), tiền tuỷ bào và tế bào nguồn.
- Các tế bào não: macrophage và đại thực bào trung bì, tế bào dạng sao
và tế bào thần kinh đệm ít nhánh.
- Các tế bào ở dạ dày, ruột: tế bào trụ và biểu mô lát, các tế bào ưa
chrome, carcinoma đại tràng, đại thực bào tổ chức đệm.
- Các tế bào da: tế bào Langerhans, tế bào xơ non.
- Các tế bào khác: tế bào sarcoma xương và cơ, tế bào biểu mô mao
mạch, tế bào nhung mao đệm bào thai, tế bào mỡ.
25
Sao chép ngược
Vị trí tấn công T
CD4+
,
đại thực bào…

×