Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận tầm nhìn Ấn Độ 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.71 KB, 16 trang )






TẦM NHÌN ẤN ĐỘ 2020












Giới thiệu khái quát “Tầm nhìn Ấn Độ 2020”
Ấn Độ là một trong những cái nôi văn minh của loài người có trên 5000 năm lịch
sử. Diện tích của Ấn Độ hơn 3.287.263 km2 (đứng thứ 7 thế giới), năm 2005 dân số là
1.089.264.388 người (đứng thứ hai thế giới). Ấn Độ có 6 tôn giáo chính (Ấn Độ giáo,
Hồi giáo, Thiên chúa giáo, đạo Sikh, đạo Thiền, Phật giáo). 19 thứ tiếng được Hiến pháp
Ấn Độ công nhận là ngôn ngữ chính, trong đó tiếng Hindi và tiếng Anh được phổ biến
rộng rãi.
Giống như các quốc gia bị trị trên thế giới trước đây, Ấn Độ là một trong những
quốc gia nằm dưới sự đô hộ của Anh vào thế kỷ 19. Nhờ tinh thần yêu nước và lòng
quyết tâm của người dân, dưới sự lãnh đạọ của Mohandas Gandhi và Jawaharlal Nehru
phù hợp với trào lưu tiến bộ trên thế giới, nên Ấn Độ đã giành được độc lập vào ngày 15
tháng 8 năm 1947.
Kể từ năm 1991, Ấn Độ áp dụng mô hình kinh tế mới mở cửa hơn và dựa nhiều


hơn vào dịch vụ và tri thức, sử dụng thế mạnh về nhân lực để phát triển công nghệ thông
tin (IT), coi đây là đầu tàu cho nền kinh tế. Nhờ vậy, 16 năm qua, tăng trưởng kinh tế của
Ấn Độ luôn ở mức cao, trung bình trên 6%/năm. Đặc biệt trong những năm gần đây, Ấn
Độ luôn có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới với mức bình quân hằng năm
trên 8%; riêng năm 2006 đạt khoảng 9%.
Chính phủ Ấn Độ đang đẩy mạnh hợp tác khoa học và công nghệ như là công cụ
giúp đem lại công bằng xã hội và phát triển kinh tế hiện thực hóa ước mơ trở thành nước
phát triển vào năm 2020. Điều này thể hiện qua chính sách liên quan đến khoa học và
công nghệ ngay từ năm 1958 với định hướng chính là: Nuôi dưỡng, thúc đẩy và duy trì
những hạt giống khoa học trong nước và bảo đảm đem lại cho người dân tất cả lợi ích thu
được từ việc tiếp nhận và ứng dụng tri thức khoa học.







I. GIỚI THIỆU TẦM NHÌN ẤN ĐỘ 2020
Mọi đất nước đều có tầm nhìn của mình, nó khơi nguồn cho trí tưởng tượng và
thúc đẩy mọi thành phần xã hội tập hợp để tạo nên sức mạnh. Đó là bước đi cần thiết
trong việc xây dựng một sự đồng thuận chính sách và chiến lược phát triển quốc gia,
chứa đựng vai trò và trách nhiệm của các cơ quan trong nền kinh tế, như Nhà nước,
Chính phủ, chính quyền địa phương, khu vực tư nhân, khu vực doanh nghiệp nhỏ và
vừa Tầm nhìn cũng cần phải xác định những nguy cơ tiềm ẩn và đưa ra các giải pháp có
thể. Như vậy, để đạt được những mục tiêu này thì một tầm nhìn phải thực thi ở nhiều cấp,
đi từ những vấn đề chung nhất đến những vấn đề chuyên biệt.
Trên tinh thần đó, Ấn Độ đã đưa ra Tầm nhìn của mình mang tên “Tầm nhìn Ấn
Độ 2020” (India Vision 2020). Để xây dựng được Tầm nhìn này, một Uỷ ban về Tầm
nhìn 2020 cho Ấn Độ đã được lập ra vào tháng 6/2000, Chủ tịch Uỷ ban là TS. S.P.

Gupta - một thành viên của Uỷ Ban Kế hoạch Ấn Độ. Hơn 30 chuyên gia thuộc nhiều
lĩnh vực đã được huy động để cùng làm việc trong hơn 2 năm nhằm xây dựng “Tầm nhìn
Ấn Độ 2020”.
Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh khẳng định Ấn Độ đang nổi lên như một
nước phát triển và năng động với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và sẽ trở thành nước lớn
thứ 6 thế giới vào năm 2020. Trong thập niên vừa qua, kinh tế Ấn Độ đã tăng trưởng
trung bình gần 6%/năm, đưa Ấn Độ đứng vào hàng ngũ các nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất thế giới. Bên cạnh đó, tỷ lệ lãi suất thấp, dự trữ ngoại tệ liên tục tăng,
xuất khẩu tăng mạnh, đang đem lại một thời kỳ thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Ấn
Độ. Ấn Độ còn có khả năng được xếp vào hàng các nước đứng đầu thế giới trong một số
lĩnh vực kinh tế mới như công nghệ thông tin (IT); công nghệ sinh học; công nghệ dược
phẩm và chế tạo ô tô. Trong 20 năm tới, Ấn Độ sẽ có một lực lượng lao động phát triển
mạnh, trong khi hầu hết các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
đang bước vào thời kỳ dân số già cỗi. Tuy nhiên, Ấn Độ sẽ phải vượt qua một chặng
đường dài để biến những tiềm năng sẵn có thành sức mạnh để phát triển. Thủ tướng Ấn
Độ, Manmohan Singh, cho rằng nếu không tiến hành những cải cách cơ cấu táo bạo, Ấn
Độ có thể bị tụt hậu và rơi trở lại khu vực các nền kinh tế tăng trưởng thấp như trước đây.
Ngoài ra, Thủ tướng Singh cũng đề cập tới sự cần thiết phải xây dựng sự đồng thuận
chính trị trong công cuộc cải cách của Ấn Độ nhằm đáp ứng những thách thức do nền
kinh tế toàn cầu đặt ra.
 Một tầm nhìn cho Ấn Độ
Trong một thế giới ngày càng nhiều biến động thì việc đưa ra những dự báo là rất
khó khăn. Thử nhìn lại những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX với đầy những biến
động khó lường. Vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, khi Ấn Độ đối mặt với nạn đói
lan rộng và phụ thuộc vào trợ giúp lương thực của nước ngoài để nuôi sống người dân,
nhưng ai có thể tưởng tượng được chỉ trong thời gian ngắn Ấn Độ đã tăng được gấp đôi
lượng lương thực và dư thừa lương thực để xuất khẩu. Ai có thể tưởng tượng được sự
phát triển thần kỳ của Nhật Bản những năm 60 và 70, rồi lại thấy sự phát triển này chững
lại những năm 90 hay cuộc cách mạng máy tính cá nhân vào cuối những năm 80 và
Internet bùng nổ… Năm 1983, giá trị xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ mới chỉ 12 triệu

USD, nhưng sau 17 năm, con số này đã tăng tới 500 lần và nước này trở thành quốc gia
hùng mạnh về công nghệ thông tin.
Những người xây dựng “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” không có tham vọng đưa ra một
báo cáo dự án hay một mục tiêu kế hoạch là Ấn Độ sẽ như thế nào vào năm 2020, mà họ
chỉ coi đó là một cầu nối giữa mong muốn và kết quả trong thời hạn dài hay xem đó như
một sự tưởng tượng, một khát vọng. “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” cũng đưa ra những nghiên
cứu và phân tích các khả năng thực tế nhất để có những hành động cần thiết nhằm biến
các khả năng thành hiện thực. Theo các nhà xây dựng “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” này, khi
xây dựng một tầm nhìn cho tương lai Ấn Độ, thì điều quan trọng là cần phải xem xét đến
những hạn chế của quá khứ vừa qua để “khám phá lại” (Rediscover) một nước Ấn Độ vĩ
đại. Mặc dù nước Cộng hoà Ấn Độ ngày nay là một quốc gia trẻ đang phát triển, nhưng
người dân Ấn Độ có nền văn hoá và lịch sử phong phú và lâu đời, một nền văn minh rực
rỡ của thế giới. Do vậy không thể coi Ấn Độ bắt đầu xây dựng một quốc gia hiện đại từ
năm 1947, mà cần phải có một cái nhìn khác, đó là nước này đang trên con đường “Khám
phá lại” những giá trị văn hoá và tinh thần phong phú đã làm nên một nước Ấn Độ trong
quá khứ. Chính dựa trên cơ sở này mà các nhà hoạch định đưa ra “Tầm nhìn Ấn Độ
2020”.
 Những thách thức ở phía trước
Thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ đã tăng gấp đôi trong vòng 20 năm qua.
Với tốc độ tăng dân số khoảng 1,6%/năm, và GDP trung bình ở mức 9% là đủ để Ấn Độ
tăng gấp 4 lần thu nhập bình quân đầu người vào năm 2020. Để đạt được mức thu nhập
này (thu nhập trên mức trung bình-UMI, Upper-Middle Income-của các nước như
Áchentina, Chilê, Mêhicô, Malaixia và Nam Phi), Ấn Độ phải đạt được một mức tăng
trưởng cao hơn Trung Quốc hiện nay. Đây là thách thức lớn đối với các nhà lãnh đạo
nước này.
Bảng dưới đây so sánh tình hình hiện nay của Ấn Độ qua một vài chỉ số phát triển với
mức trung bình mà nhóm các nước trên đã đạt được. Tuy nhiên, đây không phải là mục
tiêu cho Ấn Độ vào năm 2020, mà chỉ coi đó là công cụ tham chiếu, trong nhiều trường
hợp, các chỉ số có thể bị vượt qua (Bảng 1).
Các chỉ số phát triển

Ấn Độ hiện
nay
UMI chỉ số Ấn Độ
2020
Tỷ lệ % dân số dưới mức nghèo khổ
26,0
13,0
Tỷ lệ thất nghiệp (% lực lượng lao động)
7,3
6,8
Tỷ lệ biết chữ ở nam giới (%)
68,0
96,0
Tỷ lệ biết chữ ở nữ giới (%)
44,0
94,0
Tỷ lệ trẻ được nhận vào tiểu học (%)
77,2
99,9
Chi tiêu công cộng cho giáo dục (%
GNP)
3,2
4,9
Tỷ lệ trẻ tử vong trên 1000 trẻ sơ sinh
71,0
22,5
Chi tiêu công cộng cho y tế (% GNP)
0,8
3,4
Mức tiêu thụ năng lượng thương mại đầu

người (kg dầu tương đương)
486,0
2002,0
Tiêu thụ năng lượng điện trên đầu người
(kwh)
384,0
2460,0
Điện thoại trên 1000 dân
34,0
203,0
Số người có máy tính trên 100o dân
3,3
52,3
Số kỹ sư và nhà khoa học trong nghiên
cứu và triển khai (R&D) trên một triệu
dân
149,0
590,0
Tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp vào
GDP (%)
28,0
6,0
Tỷ lệ đóng góp của công nghiệp vào GDP
26,0
34,0
Tỷ lệ đóng góp của dịch vụ vào GDP
46,0
60,0
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng
đầu tư (%)

2,1%
24,5%
Bảng 1. Một số chỉ số phát triển của Ấn Độ
Nguồn: World Development Indicators 2001, World Bank

Để có thể đạt được các chỉ số phát triển trên và vượt qua trong một số trường hợp, Ấn Độ
phải đối mặt với những thách thức lớn sau đây:
 Làm sao để đưa hàng triệu dân vượt qua mức nghèo khổ;
 Làm thế nào để tạo ra hàng chục triệu cơ hội việc làm mỗi năm, nhất là cho những
nhóm người có thu nhập thấp;
 Xoá nạn mù chữ; tăng tỷ lệ trẻ vào tiểu học;
 Cải thiện y tế để giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ;
 Đầu tư lớn vào sản xuất điện năng, vào viễn thông và các hạ tầng xã hội khác;
 Tăng cường tiếp thu các năng lực công nghệ để nâng cao sức sản xuất trong nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ;
 Làm sao để trở thành một trong những nước hàng đầu thế giới về thương mại và
đầu tư.
II. NHỮNG CƠ HỘI HIẾM CÓ
 Tri thức và công nghệ thông tin
Điều quan trọng là khi nhìn vào tương lai của Ấn Độ là phải thấy được những
tham số quyết định sự phát triển quốc gia đã thay đổi trong những năm vừa qua, mở ra
những cơ hội lớn so với trước đây. Các khả năng lớn này vẫn còn tác dụng và có những
đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh vực:
Các yếu tố quyết định của sự phát triển đang dịch chuyển:
Chế tạo -> các dịch vụ
Các nguồn tư bản -> các nguồn tri thức
- Yếu tố cấu thành GDP thay đổi cùng với sự phát triển kinh tế. Yếu tố chủ đạo của
ngành nông nghiệp trong các nước đang phát triển giảm, thay vào đó là sự nổi trội
của ngành chế tạo và các dịch vụ, là đầu tàu cho sự phát triển, do đó nền kinh tế
tăng trưởng nhanh. Xu hướng chuyển tiếp này hiện hữu trên quy mô toàn cầu và

phản ánh sự tăng trưởng ngoạn mục của ngành dịch vụ tài chính, công nghệ thông
tin và truyền thông (ICT), bảo hiểm, giáo dục và y tế.
- Ngành dịch vụ của Ấn Độ đã bắt đầu trở thành thành tố chính của GDP, chiêm
46% GDP, những tỷ lệ này còn thấp hơn so với mức 60% ở các nước tham chiếu
UMI.
- Tri thức sẽ thay thế vốn tư bản để trở thành yếu tố quyết định quan trọng nhất của
sự phát triển. Nhà kinh tế học Robert-Solow - Giải Nobel - đã chỉ ra rằng 7/8 sự
tăng trưởng của Mỹ giai đoạn từ 1900-1950 là do những tiến bộ công nghệ, trong
khi vốn tư bản chỉ chiếm 1/8. Trong giai đoạn 1929-1982, 94% sự tăng trưởng của
Mỹ là nhờ các yếu tố liên quan đến sáng tạo và phổ biến tri thức, mà ở đây là công
nghệ nâng cao sức sản xuất. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin của Ấn Độ cho
thấy tàm quan trọng của công nghệ mới và nguồn nhân lực trình độ cao, chú
không phải là nguyên vật liệu và máy móc.
- - Cuộc cách mạng tri thức không phải là một tín hiệu thoáng qua từ năm 2000 với
sự ra đời của hàng loạt các công ty dot.com, mà đó là cơ hội thực sự và hiếm có
đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển, để tăng cường chất lượng tăng
trưởng và phát huy các nguồn lực. Sự dịch chuyển từ nguyên liệu thô tới các
nguồn lực dựa trên tri thức có thể mở ra nhiều cơ hội lớn cho các nước đang phát
triển. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cảu Ấn Độ có thể cao hơn nhiều nếu nước này trở
thành một siêu cường về tri thức và nếu các tiềm năng về thông tin và công nghệ
thông tin được khai thác đầy đủ. Đây không chỉ là tiềm năng về xuất khẩu trong
lĩnh vực CNTT, mà tiềm năng quan trọng hơn là mở rộng các ứng dụng và khai
thác CNTT để kích thích sự phát triển của các ngành khác của nền kinh tế, nhất là
giáo dục, y tế, các dịch vụ tài chính, thị trường, quản lý phục vụ được nhiều
người với chi phí thấp, giảm được các khâu trung gian, tăng cường tính minh bạch
và dân chủ trong xã hội.
 Các nguồn tri thức
- - Công nghệ: Tri thức dưới dạng CNTT đã mở ra cho Ấn Độ cơ hội để trở thành
nước hàng đầu về cung cấp phần mềm máy tính và các dịch vụ với chi phí thấp
cho các nước công nghiếp phát triển. CNTT không chỉ tạo ra các nghề nghiệp

được trả lương cao và tăng giá trị xuất khẩu, mà đó còn là phương tiện làm biến
đổi cách thức đào tạo thế hệ trẻ. Nó biến đổi cách chúng ta giao tiếp với thế giới,
san phẳng các khoảng cách về địa lý và chia sẻ nguồn tri thức không lồ của nhân
loại.
- Tri thức dưới dạng công nghệ sinh học (CNSH) không chỉ tạo ra các cơ hội việc
làm mới và tăng trưởng kinh tế, mà còn là phương tiện nâng cao sức khoẻ và năng
lực sản xuất cho người dân. Về công nghệ trong nông nghiệp, tri thức giúp tăng
sản lượng lương thực lên nhiều lần. Tri thức dưới dạng công nghệ chế tạo giúp
tăng tính cạnh tranh của các nhà chế tạo Ấn Độ, đáp ứng các tiêu chuẩn và chất
lượng quốc tế.
- Tổ chức: Công nghệ không phải là nguồn tri thức duy nhất, mà ngày nay chúng ta
phai tiếp cận những kinh nghiệm của toàn thế giới về tổ chức. Tổ chức là cách
thức, kỹ năng (know-how) thực hiện công việc hiệu quả nhất. Sự thành công của
cuộc Cách mạng Xanh và Cách mạng Trắng của Ấn Độ là kết quả của việc đổi
mới tổ chức hơn là công nghệ. Ấn Độ đang có cơ hội để học hỏi và làm mới tổ
chức để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, y tế, quản lý, thương mại, công nghiệp
và phúc lợi.
- Thông tin: Nếu các phản ứng vật lý và sinh học đều đòi hỏi sự có mặt của chất xúc
tác, thì sự tiến bộ của xã hội loài người cũng phụ thuộc vào một chất xúc tác, đó là
thông tin. Tự do thông tin giải phóng xã hội khỏi nỗi sợ hãi của những bất ổn.
Thông tin về giá và tiềm năng thị trường giúp các doanh nghiệp trong hoạt động
thương mại. Thông tin về các khám phá KH&CN giúp các nhà khoa học hay các
kỹ sư áp dụng những sáng tạo mới vào thực tiễn. Phổ biến thông tin về chăm sóc
sức khoẻ giúp nâng cao sức khoẻ hiệu quả hơn là khám phá y học. Thông tin về
chính sách của Chính phủ giúp cá nhân và cộng đồng thực hiện đầy đủ hơn quyền
và nghĩa vụ của họ, đồng thời hưởng lợi từ các chương trình. Thông tin luôn hiển
hiện ở mọi lĩnh vực và dưới nhiều hình thức. Chất lượng thông tin càng cao thì
hiệu quả càng lớn cho cá nhân và xã hội. Ấn Độ đang có lợi thế về CNTT để phổ
biến thông tin.
- Giáo dục: Phát triển giáo dục và đào tạo là đặc biệt quan trọng với Ấn Độ. Qua

giáo dục, người Ấn Độ biết được tri thức của tổ tiên họ, cũng như tri thức nhân
loại. Với những công nghệ mới, Ấn Độ có cơ hội để bắt kịp khoảng cách giáo dục
giữa các vùng miền và thế giới.
- Kỹ năng: Bước tiến trong tương lai của Ấn Độ sẽ phụ thuộc vào việc mở rộng khả
năng phổ biến kỹ năng, tri thức sẵn có, mới nhất và có ích nhất đến với mọi tầng
lớp nhân dân.
III. PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
Ngày nay, Ấn Độ là nước đông dân thứ hai thế giới, với 1,04 tỷ dân. Con số này
được dự báo sẽ tăn lên 1,33 tỷ vào năm 2020. Ấn Độ đã vạch ra 2 kịch bản cấp quốc gia
để đạt dân số ổn định. Thứ nhất là kịch bản dựa trên việc đạt được các mục tiêu dân số
của Chính sách dân số quốc gia 2000, theo đó tuổi thọ của nam được nâng lên 71 và nữ là
74 vào năm 2020. Theo kịch bản thứ hai, tỷ lệ giới tính (số nữ/1000 nam) dự kiến là tăng
từ 932/1000 năm 2000 lên 950/1000 vào năm 2020 (Bảng 2).
Bảng 2. Dự báo dân số Ấn Độ (triệu người)
Năm
2000
2005
2010
2015
2020
Tổng cộng
1010
1093
1175
1256
1331
Dưới 15 t
361
368
370

372
373
15-64 tuổi
604
673
747
819
882
Trên 65 t
45
51
58
65
76
Nguồn: Based on P.N. Mari Bhatt, “Indian Demographic Scenario 2025”, Institute of
Economic Growth, New Delhi, Discussion Paper No. 27/2001.
Số dân dưới 15 tuổi và từ 15-64 tuổi được dự báo sẽ tăng khiến sức ép về giáo dục, lương
thực, y tế… ra tăng.
 An ninh lương thực
Thách thức lớn nhất đối với tăng dân số Ấn Độ trong thập kỷ tới là an ninh lương
thực. Ấn Độ đã từng phải đối mặt với vấn đề lương thực vào những năm 60 dẫn đến cuộc
Cách mạng xanh đã giúp Ấn Độ đảm bảo an ninh lương thực. An ninh lương thực dài hạn
không chỉ đòi hỏi sản xuất lương thực dài hạn, sản xuất lương thực hiệu quả để đáp ứng
nhu cầu lượng thực, mà còn đảm bảo rằng mọi người dân có thể tiếp cận được lương thực
cần thiết.
Ấn Độ đang trong giai đoạn 4 của quá trình biến đổi ngành nông nghiệp: Giai
đoạn tiền Cách mạng Xanh; Giai đoạn Cách mạng Xanh (từ giữa những năm 60 đến giữa
những năm 80); Giai đoạn hậu Cách mạng Xanh và Giai đoạn thương mại hoá hiện nay.
Trong giai đoạn này, Ấn Độ thực hiện đa dạng hoá sản phẩm lương thực từ giá trị tháp
đến giá trị cao đáp ứng nhu càu trong nước, chế biến và xuất khẩu.Ấn Độ phải đảm bảo

sự tăng trưởng nông nghiệp từ 4-4,5%/năm để đảm bảo an ninh lương thực và đồng thời
tăng sức mua ở khu vực nông thôn.
 Việc làm
Dân số, an ninh lương thực, giáo dục và cơ hội việc làm liên quan mật thiết với
nhau. Ấn Độ sẽ gặp thách thức lớn là tạo đủ lương thực cho mọi người, nhưng đồng thời
cũng phải tạo ra đủ việc làm để đảm bảo mọi người có đủ sức mua lương thực, do vậy
đảm bảo việc làm là điều kiện chính cho an ninh lương thực và an ninh xã hội. Lực lượng
lao động Ấn Độ đã đạt 375 triệu vào năm 2002 và đang tiếp tục tăng với tốc độ 7-8,5%
triệu người mỗi năm trong thập kỷ tới. Số người thất nghiệp ở Ấn Độ khoảng 35 triệu
năm 2002. Ấn Độ sẽ phải tạo ra tổng cộng 200 triệu việc làm vào năm 2020. Ấn Độ đã
xác định những ngành có tiềm năng sử dụng lượng lao động lớn là: nông nghiệp theo
hướng thương mại, năng lượng, thương mại, du lịch, nhà đất, xây dựng, công nghiệp dệt
may, ngành công nghiệp nhỏ và vừa, công nghệ thông tin - truyền thông, vận tải, giáo
dục, y tế, các dịch vụ cộng đồng và các dịch vụ tài chính.
Trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, nhu cầu trong nước đối với các sản phẩm ché
tạo và dịch vụ sẽ tăng mạnh, đi đôi với đó là cơ giới hoá nhanh ngành nông nghiệp, kéo
theo lượng việc làm nông nghiệp giảm. Vào năm 2020, tổng lượng việc làm trong ngành
nông nghiệp có thể giảm xuống dưới mức 45%, trong khi việc làm trong các ngành dịch
vụ sẽ tăng, chỉ riêng trong ngành này có thể thu hút hơn 120 triệu lao động vào năm
2020. Khu vực công nghiệp quy mô nhỏ sẽ chiếm 95% ngành công nghiệp, 40% giá trị
gia tăng, 35% xuất khẩu và 80% việc làm trong ngành chế tạo. Khu vực này hiện chiếm
18 triệu việc làm. Trong ngành chế tạo, ngành dệt may có tiềm năng rất lớn và có thể tạo
ra được 7 triệu việc làm trong 5 năm tới. Ngành công nghệ thông tin Ấn Độ được coi là
ngành vừa tạo ra được nhiều việc làm, vừa thúc đẩy các ngành kinh tế và dịch vụ khác,
nhất là trong thiết kế và chế tạo.
 Giáo dục
Chính sách dân số thành công liên quan trực tiếp tới sự thành công của chính sách
giáo dục. Giáo dục và đào tạo là nền tảng cho tăng trưởng trong sản xuất, thu nhập và cơ
hội việc làm cho phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao sức khoẻ và
chất lượng cuộc sống. Giáo dục là nền tảng cho sự tiếp cận các lợi ích của cuộc cách

mạng thông tin đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Giáo dục là ưu tiên và là phương pháp
hiệu quả nhất để truyền bá tri thức từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Tỷ lệ biết chữ ở Ấn Độ đã tăng từ 18% năm 1951 lên 65% năm 2001, nhưng tỷ lệ này
còn kém so với các nước tham chiếu UMI (95%). Biết chữ phải được coi như là quyền và
đòi hỏi tối thiểu của mọi người dân Ấn Độ. Ở Ấn Độ tỷ lệ ghi danh vào lớn học ở bậc
tiểu học là khoảng 77% và bậc trung học là khoảng 60%. Việc đạt tỷ lệ đăng ký đến
trường 100% đối với tất cả trẻ em từ 6-14 tuổi là một tham vọng lớn trong mục tiêu cần
đạt được của “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” (Bảng 3).
Bảng 3. Các dự báo về giáo dục tới năm 2020 của Ấn Độ

1980
2000
Xu hướng bình
thường đến
2020
Kịch bản được kỳ
vọng nhất vào
năm 2020
Tỷ lệ đăng ký đến
trường (1-8 tuổi)
77%
79%
85%
100%
Tỷ lệ đăng ký đến
trường (9-12 tuổi)
30%
58%
75%
100%

Tỷ lệ bỏ học giữa
chừng (1-8 tuổi)
73%
54%
35%
0%

Bên cạnh đó Ấn Độ cũng cần phải tăng số lượng lớp học 65% từ nay đến 2020. Đi
đôi với đó là việc tăng lượng giáo viên lớn, ước tính khoảng 3 triệu giáo viên, để có thể
đạt được mục tiêu như kịch bản trên và cải thiện được tỷ lệ giáo viên-học sinh từ 1:42
xuống còn 1:20. Điều này cũng kéo theo việc tăng các trường đào tạo giáo viên và quỹ
lương cho giáo dục.
Về giáo dục bậc cao hơn, số lượng các trường học đã tăng đáng kể (Bảng 4).
Bảng 4. Sự gia tăng số trường học bậc cao
Năm
Trường học cho giáo
dục phổ thông
Trường cho giáo dục
chuyên nghiệp
Trường đại học
1951
370
208
27
1998
7199
2075
229

Tầm nhìn Ấn Độ 2020” dự báo rằng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định nhất cho

toàn bộ sự phát triển. Để phát triển nguồn nhân lực khổng lồ đầy tiềm năng thì đòi hỏi
phải có những ưu tiên quốc gia, những cam kết về tăng nguồn tài chính cho giáo dục. Ấn
Độ hiện đầu tư 3,2-4,4% GNP cho giáo dục, thấp hơn so với các nước tham chiếu UMI
(4,9%). Tầm nhìn cũng hướng tới việc đạt được mô hình hệ thống giáo dục bậc cao của
Mỹ.
 Năng lực khoa học và công nghệ
Nhờ vào những chính sách và định hướng khoa học và công nghệ đúng đắn, Ấn
Độ đã trở thành nước sản xuất gạo lớn thứ hai, sản xuất lúa mì và sữa lớn thứ tư trên thế
giới. Bước đột phá trong công nghệ không gian và những ứng dụng rộng rãi của nó trong
thông tin liên lạc, truyền hình, dự báo thời tiết, quản lý thiên tai và những nguồn tự nhiên
đã trở thành sự thèm muốn của cả thế giới. Ngành công nghệ thông tin và công nghiệp
phần mềm Ấn Độ đã nổi lên như một lĩnh vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất.
Những tiến triển trong công nghệ hạt nhân cũng là một thành quả đầy ý nghĩa đối với
quốc gia này. Gần đây, Ấn Độ cũng đã đạt được những dấu ấn nổi bật trong lĩnh vực
công nghệ sinh học, điện thoại di động, luyện thép và một vài lĩnh vực chế tạo lựa chọn
khác. Chính vì vậy, đất nước Nam Á này đã và đang đầu tư mọi khả khăng vào nghiên
cứu khoa học. Cụ thể, Ấn Độ đã tăng ngân sách cho nghiên cứu KH&CN hàng năm lên
16%. Trong những năm qua, Chính phủ đã đầu tư hỗ trợ nghiên cứu cơ bản cho 1280 dự
án, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của 200 phòng thí nghiệm và 220 trường đại học cùng với
việc xây dựng thêm 20 trung tâm nghiên cứu mới.
Những chương trình và chính sách nhằm gia tăng khả năng KH&CN của Ấn Độ
được thực hiện thông qua 5 bước: 1) Xây dựng cơ sở hạ tầng; 2) Định hướng lại; 3) Thúc
đẩy công nghệ trong nước; 4) Hướng tới sự tự do kinh tế; 5) KH&CN trong tự do kinh tế.
Để tạo mọi điều kiện cho phát triển KH&CN, các thủ tục hành chính, quy định của Chính
phủ được nới lỏng và trở nên linh động với mục đích mở ra một lộ trình mới cho nền
khoa học của đất nước này đi lên, hỗ trợ một cách tối ưu nhất cho các nhà khoa học để họ
có thể phát triển ở ngay tại đất nước thay vì theo đuổi sự nghiệp ở nước ngoài. Nạn chảy
chất xám không còn là vấn đề đáng lo ngại. Trong những năm qua, với những chính sách
sử dụng nhân tài đúng đắn đã kéo hơn 30.000 nhà khoa học và chuyên gia hàng đầu trở
về quê hương.

“Tầm nhìn Ấn Độ 2020” cho rằng giáo dục được coi là nền của Kim tự tháp tri
thức cho phát triển nhanh và bền vững thế kỷ 21. Sự tiến bộ không ngừng của khoa học
và ứng dụng công nghệ tiên tiến được cho là phần thân của kim tự tháp này và tư tưởng
xã hội, các giá trị tinh thần được coi là đỉnh tháp.
Giáo dục kỹ thuật, giáo dục chuyên nghiệp và hướng nghiệp, là nền tảng cho phát
triển khoa học và công nghệ. Ấn Độ tự hào về tiêu chuẩn quốc tế mà nước này có được
đối với ngành công nghệ thông tin Nhưng chỉ với một nhóm các viện kỹ thuật tầm cỡ thế
giới là chưa đủ. Một số lượng lớn các trường (khoảng 500 trường kỹ thuật) cần được
nâng cấp để đạt chất lượng gần như ngành công nghệ thông tin. Các sáng kiến và đầu tư
trong khu vực tư nhân, trong các hiệp hội, hay từ các trường đại học nước ngoài cần được
khuyến khích. Cần phải tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các trường kỹ thuật và ngành công
nghiệp. Cơ sở nhân lực khổng lồ của Ấn Độ về những nhà khoa học và những kỹ sư
thường được đánh giá cao và cạnh tranh. Nhưng tỷ lệ nguồn nhân lực này tính trên số dân
thì còn thấp, so với Mỹ chỉ bằng 1/100, so với Hàn Quốc 1/50 và chỉ bằng 1/3 của Trung
Quốc. Nhưng chỉ với nguồn nhân lực thì chưa đủ vượt xa trong phát triển và ứng dụng
KH&CN. Về đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), Ấn Độ chỉ bằng 1/60 của Hàn
Quốc, 1/250 của Mỹ và 1/340 của Nhật Bản. 71% chi cho KH&CN là trong các lĩnh vực
năng lượng hạt nhân, nghiên cứu quốc phòng và không gian, phần còn lại chủ yếu cho
nông nghiệp, năng lượng, viễn thông và các ngành quan trọng khác. Do đầu tư thấp cho
R&D nên năng lực R&D của nước này thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, Hàn Quốc.
Hơn nữa, dù Ấn Độ có những trường đại học hàng đầu về KH&CN, nhưng hệ thống
nghiên cứu quốc gia ít đạt được những kết quả mang tầm thế giới. Nguyên nhân quan
trọng là do thiếu sự liên kết giữa các nhà khoa học tại các trường đại học và viện nghiên
cứu với khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Việc cải thiện mối liên kết này cần phải
được tăng cường, đặc biệt là mối liên kết giữa phát triển công nghệ và ứng dụng công
nghệ bằng cách thắt chặt mối liên kết giữa khu vực nghiên cứu với ngành công nghiệp;
đồng thời khuyến khích các trường đại học nghiên cứu theo yêu cầu của khu vực công
nghiệp và thương mại hoá kết quả nghiên cứu, thành lập các khu ươm tạo và các công
viên cho các doanh nghiệp KH&CN. Bên cạnh thế mạnh về công nghệ thông tin, Ấn Độ
cũng bắt đầu đầu tư vào các ngành công nghệ cao khác như công nghệ sinh học. Ấn Độ

có rất nhiều tiềm năng trong lĩnh vực tin - sinh học, các công nghệ gen.
Ngày nay, Ấn Độ đã có nỗ lực rất nhiều trong đầu tư cho R&D: năm 2005, Chính
phủ nước này đã đầu tư 1% GDP cho R&D và dự kiến con số này sẽ tăng lên 2% vào
năm 2012. Mặc dù đầu tư trong nước cho R&D còn khiêm tốn so với các nước khác,
nhưng Ấn Độ đang nổi nên như là một trong những trung tâm R&D hàng đầu thế giới.
Dự đoán rằng, đến năm 2020, Ấn Độ sẽ trở thành trung tâm sản xuất tri thức số một thế
giới. Quốc gia này đang nỗ lực vươn tới mục tiêu trở thành tâm điểm của các hoạt động
R&D toàn cầu và được ghi nhận như là một xã hội tập trung tri thức của thế giới. Sự phát
triển nhanh chóng của các trung tâm R&D của những công ty đa quốc gia (như
Microsoft, IBM, Intel, Google, Yahoo, Adobe ) và cả những công ty bản địa hàng đầu
đã dần minh chứng cho nhận định đó. Theo dự đoán, các hoạt động R&D ở Ấn Độ được
hy vọng tăng trưởng từ 3.1 tỷ USD năm 2005 lên 6.6 tỷ USD vào năm 2010.
Ngoài công nghệ thông tin, những trung tâm R&D trong lĩnh vực dược phẩm và
công nghệ sinh học đang phát triển và mở rộng đặc biệt nhanh chóng. Rất nhiều công ty
dược phẩm hàng đầu đã thiết lập các hoạt động nghiên cứu ở đây như Eli Lilly&Co,
Merck&Co, GlaxoSmithKline, Novartis, Pfizer Những công ty này nhận ra rằng, Ấn
Độ không chỉ là nơi tiến hành những thử nghiệm lâm sàng, mà còn là nơi thực hiện
những nghiên cứu cơ bản. Các hoạt động R&D ở đây vẫn còn mới và cần có thời gian để
khai thác triệt để những lợi thế cũng như thúc đẩy thương mại hóa R&D trong lĩnh vực y
tế. Các công ty dược phẩm của Ấn Độ gần đây cũng nhận thấy cần phải tập trung vào
R&D, trong đó nhiều công ty sử dụng hơn 8% tổng thu nhập cho nghiên cứu. Tuy nhiên,
đầu tư ngân sách của Ấn Độ cho các công ty dược phẩm trong nước còn thấp hơn nhiều
so với những công ty dược phẩm nước ngoài. Những công ty dược phẩm lớn của Ấn Độ
đang hướng tới trở thành nhà đầu tư R&D chính trong lĩnh vực dược phẩm trong nước.
Trong 2005-2006, chi phí cho R&D của 50 công ty dược phẩm lớn trong nước lên đến
495,19 triệu USD. Chính phủ Ấn Độ cũng đang huy động phát triển những nghiên cứu về
sinh học y tế bằng việc tăng cường hệ thống pháp lý như bảo vệ quyền phát minh sáng
chế và điều chỉnh cho hài hòa với những tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợ tài chính cho phát
triển R&D trong công nghệ sinh học đồng thời tạo ra những khuyến khích về thuế trong
các hoạt động R&D.

Hiện có hơn 150 công ty đa quốc gia đang tiến hành các hoạt động R&D ở Ấn Độ,
đa phần những công ty này đến từ Mỹ và châu Âu. Theo một thông báo gần đây, khoảng
25% nguồn đầu tư toàn cầu của các công ty đa quốc gia đang đổ vào Ấn Độ. Tại sao hàng
loạt công ty đa quốc gia lại đổ xô đầu tư vào R&D ở Ấn Độ nhiều như vậy? Lý do cốt lõi
là bởi vì nguồn nhân lực. Ấn Độ có một nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ
hùng hậu, thạo chuyên môn giỏi tay nghề, sử dụng tiếng Anh tốt. Hơn nữa, giá thuê nhân
công ở đây tương đối rẻ.
Chính sự hiệu quả về chi phí đã khiến Ấn Độ trở nên hấp dẫn với các nhà sản xuất.
Sự tiết kiệm chi phí có thể lên tới 30-50%. Chi phí phát minh ở Ấn Độ chỉ bằng 1/5 hoặc
1/7 so với châu Âu.
Ngoài chi phí thấp và nguồn dồi dào kỹ sư giá rẻ, Ấn Độ có những cơ sở đào tạo
tuyệt vời như Học viện Công nghệ Ấn Độ, Học viện Khoa học Ấn Độ và một số trường
cơ khí khác. Ngoài ra có một mạng lưới trung tâm nghiên cứu lớn của Chính phủ. Hiện
nay, có vẻ như R&D, đặc biệt là outsourcing R&D có thể là một câu chuyện thành công
mặc dù phải nói rằng đầu tư tại Ấn Độ thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, Malaixia và
Singapo.
IV. CƠ SỞ HẠ TẦNG
 Phát triển đô thị
Vấn đề cơ sở hạ tầng nông thôn và thành thị là vấn đề của mọi quốc gia, riêng với
Ấn Độ thì đây là vấn đề lớn cần có những chiến lược để phát triển. Dân cư thành thị ngày
một tăng cao, trong những năm 90 có 25,5% dân số Ấn Độ sống ở thành thị, đến năm
2001 con số này là 27,8% và có thể lên tới 40% vào năm 2020. Tăng trưởng dân số và
kinh tế sẽ được đẩy lên cao trong khoảng từ 60 đến 70 thành phố của nước này. Xu
hướng di dân ra thành phố và đô thị hoá sẽ kéo theo nhiều vấn đề về hạ tầng đô thị, như
quản lý, phát triển hạ tầng giao thông, điện, nước, y tế, giáo dục, nhà ở… Các chương
trình chống đói nghèo phải ưu tiên cho việc tạo ra cơ sở hạ tầng dựa trên cộng đồng. Do
vậy Ấn Độ cần có những chiến lược phát triển năng lực của từng ngành, kết hợp sự đầu
tư của Nhà nước và tư nhân. Phát triển hạ tầng đô thị thực sự là một trong những thách
thức lớn đối với Ấn Độ giai đoạn 2000-2020.



 Hạ tầng nông thôn
Đi đôi với phát triển hạ tầng đô thị, cũng cần phải có những nỗ lực phát triển hạ
tầng nông thôn. Trong đó nổi cộm là những vấn đề về giáo dục, y tế, vận tải, viễn thông,
điện và nước. Có tới 80.000 ngôi làng, trong đó có 18.000 làng ở vùng sâu, vùng xa của
nước này vẫn chưa có điện. Để 100% nông thôn có điện thì không thể chỉ dựa vào nguồn
điện truyền thống mà cần phải đa dạng hoá nguồn điện, nhất là năng lượng tái tạo ở
những vùng hẻo lánh. Về điện thoại, mới chỉ có khoảng 4/100 dân có đường điện thoại và
con số này phải tăng gấp 7 lần thì mới có thể bằng mức hiện nay của các nước UMI. Do
vậy mạng lưới điện thoại cố định, cũng như mạng di động thế hệ 3G cần được phát triển
mạnh. Bên cạnh đó, phát triển các dịch vụ công nghệ thông tin là không thể thiếu trong
một nền kinh tế tri thức và một xã hội thông tin.
“Tầm nhìn Ấn Độ 2020” nhắm vào việc tạo ra một cơ sở hạ tầng nông thôn kết nối
mọi ngôi làng bằng đường giao thông kiên cố, liên lạc viễn thông - công nghệ thông tin,
điện, nước sạch, các dịch vụ y tế, giáo dục tiểu học và phổ thông cho mọi người dân.
Nhưng vấn đề cơ sở hạ tầng nông thôn không thể được nhìn nhận được những góc độ
riêng biệt, những dịch vụ riêng biệt, mà cần phải có một chiến lược chiến lược toàn diện
và tổng hợp.
V. NĂNG LƯỢNG VÀ MÔI TRƯỜNG
Tăng trưởng kinh tế thế giới trong thời gian qua được “điều khiển” bởi năng
lượng. Ngày nay, năng lượng có thể từ nhiều nguồn khác nhau, như than, dầu, gas và các
nguồn năng lượng tái tao (như thuỷ điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng
lượng sinh khối). Việc tạo ra và sử dụng các nguồn năng lượng này cũng gây ảnh hưởng
lớn tới môi trường nước, không khí, đất và tài nguyên rừng mà Ấn Độ sẽ gặp phải trong
hai thập kỷ tới. Để có tăng trưởng nhanh và bền vững trong tương lai thì việc khai thác và
sử dụng các nguồn năng lượng phải hiệu quả và không hại môi trường.
Trong vòng 20 năm qua, năng lực sản xuất năng lượng của Ấn Độ đã tăng gấp 3
lần và vượt mức 101.000 MW, dự báo sẽ tăng lên 292.000 MW vào năm 2020. Tuy
nhiên, tổng nhu cầu năng lượng có thể tăng 3,5 lần trong giai đoạn 2000-2020. Năm
1997, nước này tiêu thụ tổng cộng 329 TWh (trong đó, ngành công nghiệp chiếm 137

TWh), dự báo đến năm 2020 con số này sẽ là 1134 TWh, trong đó 2/3 là khai thác từ các
nguồn năng lượng nhiệt (than, dầu và gaz). Như vậy, cho dù tăng gấp đôi lượng khai thác
trong nước, thì cũng không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Lượng dầu sản xuất trong
nước dự báo là sẽ vẫn ổn định, trong khi lượng dầu nhập khẩu sẽ tăng gấp đôi hoặc gấp 3
(Bảng 5).
Bảng 5. Dự báo nhu cầu 3 nguồn năng lượng chính của Ấn Độ
Năm
Than
(triệu tấn)
Dầu
(triệu tấn)
Gas
(tỷ m
3
)
1997
311
83
21,5
2020
538
195
64,7

Trong khi đó, năng lượng tái tạo cũng được dự báo là chỉ chiếm 5%. Mặc dù
nguồn năng lượng đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường. Ấn Độ là một trong
những nước sản xuất năng lượng gió lớn nhất thế giới, 95% là đầu tư tư nhân. Ấn Độ
cũng khuyến khích phát triển các công nghệ năng lượng tái tạo. Bên cạnh các nội dung
lớn trên, “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” cũng đề cập tới các vấn đề về toàn cầu hoá, hoà bình,
an ninh và phân quyền.

KẾT LUẬN
Trong phần kết luận, “Tầm nhìn Ấn Độ 2020” khẳng định, Ấn Độ 2020 sẽ có
nhiều đổi thay lớn trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, năng lượng, khoa học, công
nghệ, đổi mới Một cuộc cách mạng năng suất thứ hai trong nông nghiệp Ấn Độ trong
lĩnh vực cây trồng và những nỗ lực thương mại, công nghiệp chế biến, cải thiện đất hoang
cằn cỗi sẽ phát sinh các nông trại lớn với những cơ hội việc làm. Các vấn đề về đa dạng
nguồn năng lượng, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí thành thị sẽ là những thách
thức lớn cần được giải quyết.
Về công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, Ấn Độ đang
là trung tâm công nghệ cao của thế giới, được ví như Thung lũng Silicon Valley thứ hai.
Tính cạnh tranh quốc tế được nâng cao của Ấn Độ sẽ tạo ra những cơ hội việc làm cho
giới trẻ.
Những khoảng cách lớn về giới, giàu nghèo, cộng đồng và vùng sẽ giảm xuống
đáng kể. Giao thông thành thị ngày càng dày đặc. Những con đường thành phố và nông
thôn sẽ cải thiện đáng kể năng lực và chất lượng. Mạng lưới điện thoại và Internet sẽ len
vào mọi khía cạnh của cuộc sống và mọi miền đất nước. Ấn Độ sẽ hội nhập nhiều hơn
với kinh tế toàn cầu và sẽ đóng vai trò quan trọng trong thương mại, công nghệ và đầu tư
toàn cầu và sẽ có một nước Ấn Độ đoàn kết và thịnh vượng vào năm 2020.
Người xử lý: Phùng Anh Tiến


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) India Vision 2020;
2) China's and India's R&D, Patents Foretell Grander Ambitions, By Rebecca
Catching, Aug 6, 2007
3) Tạp chí Tia sáng, 7/2007
4) Http://india.gov.in/default.htm.

×