Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.94 KB, 3 trang )
CHƯƠNG III
KEROGEN
I.
Thuật ngữ kerogen được dùng để chỉ các tổ phần hữu cơ của
đá trầm tích không tan trong dung môi kiềm, nước cũng như các
dung môi hữu cơ thông thường. Tuy vậy cũng có tác giả chỉ giới hạn
này đối với VCHC không tan có trong đá phiến dầu, chúng sản sinh
ra dầu khi cho phá hủy nhiệt (chưng cất). Trong khi đó một số tác
giả lại dùng “kerogen” như tổng VCHC của đá trầm tích. Ở đây cần
hiểu rằng fraction có khả năng chiết tách với dung môi hữu cơ được
gọi là bitum còn thuật ngữ kerogen không bao gồm bitum hoà tan.
Như đã chỉ ra trước đây, dạng sớm (tiền thân) của kerogen
trong các trầm tích trẻ là vật liệu không tan, nó cũng được gọi là
“humin” bởi các nhà thổ nhưỡng học, mặc dù thành phần của nó
khác với các hợp chất có trong đất lục địa. Sự khác nhau chủ yếu
giữa humin của trầm tích trẻ và kerogen trầm tích cổ là sự tồn tại
một fraction có thể thủy phân quan trong trong humin; fraction này
dần biến mất khi xuống sâu. Trong các tình hình địa chất, thường
thiếu thông tin, kể cả sự tiến hoá của kerogen, ở chiều sâu chôn vùi
tương đối nông. Các quan sát trên mẫu lõi thu nhận bởi các nhà hải
dương học, thường bao trùm chiều sâu từ 0 tới 10m. Trái lại, các
mẫu lõi được lấp bởi công nghiệp dầu thường bắt đầu ở 500 hoặc
1000m. Một số giếng khoan thuộc chương trình JOIDES có thể giúp
cho việc lấy đầy chỗ trống, mặc dầu nhiều khu vực được khoan ở
các bồn Đại dương sâu thể hiện ít hoặc không chứa hữu cơ. Các
quan sát được ghi nhận ở chương II.4 dành cho thành phần và đặc
tính của kerogen tới khoảng mà chúng có thể được phân tích dưới sự
thiếu hụt độ sâu dã nói. Hơn nữa, hầu hết các xác định là liên quan
tới fraction vô hình của kerogen, mà thường là một đám kerogen.
Karogen là dạng quan trọng nhất của carbon hữu cơ trên trái
đất. Nó lớn hơn 1000 lần than cộng với dầu trong đá chứa, và 50 lần