Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ - phần
7
Thế là nước Pháp, ngay từ đầu đã lo đến sự "an ninh"
ở châu Á nhiều hơn là đến danh dự phải tôn trọng
chữ ký của mình trên các Hiệp định Genève. Đập lại
luận điệu của phái cực hữu và của đảng xã hội
S.F.I.O chỉ trích chính sách bỏ cuộc của mình, Chính
phủ nêu lên câu hỏi: vậy thì các ngài có chính sách
nào khác không ? Và phe đối lập đã đành phải trả lời
là: không. Vả chăng phe đối lập rồi sẽ được trấn an
về những lợi ích kinh tế của Pháp ở Đông Dương, Bộ
trưởng bộ các Quốc gia Liên hiệp đã có thể đoán chắc
với các Nghị sĩ rằng:
"Ở Nam Việt Nam, Campuchia và Lào, mục tiêu của
Chính phủ Pháp là giành được cho các công dânc ủa
chúng ta những điều kiện đảm bảo ngang như những
điều kiện đảm bảo mà họ đã được hưởng theo các
hiệp ước ký những năm 1949 và 1950 (với Bảo Đại,
chú thích của tác giả). Nhằm mục đích này nhiều hiệp
định đã được ký kết trong mấy tháng qua với Chính
phủ Ngô Đình Diệm. Chính phủ Pháp đã có những
cuộc hội đàm song phương với Campuchia, Lào và
Việt Nam nhằm thực hiện một cuộc chuyển tiếp êm
thấm cho nền kinh tế của các nước này cũng như cho
các quyền lợi tư nhân của Pháp. Đặc biệt là nhờ đạt
được những biên thuế ưu tiên, các cuộc thương lượng
này đảm bảo duy trì về cơ bản các luồng mậu dịch
giữa nước Pháp và Đông Dương. Cả Việt Nam và
Hoa Kỳ đều đã khẳng định họ không hề có ý định
làm chuyển hướng những luồng mậu dịch này".[30]
Những cuộc thương lượng song phương này giữa
nước Pháp và chính quyền Diệm sẽ không diễn ra êm
thấm. Chính phủ Pháp nhất quyết buộc phía đối tác
phải trả giá càng cao càng tốt cho cái quyền thừa kế
ưu tiên của người con trưởng; những con chủ bài
chính mà họ nắm trong tay để thương lượng là sự có
mặt của đội quân viễn chinh Pháp, những nhóm chính
trị - tôn giáo được vũ trang mà bộ chỉ huy Pháp đã tài
trợ và trang bị: Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo;
chính quyền Diệm sẽ không bao giờ được yên tâm về
sự ổn định của mình chừng nào còn có mặt những đội
quân này trên lãnh thổ. Nhưng phía Diệm cũng không
hoàn toàn trắng tay: sự ủng hộ của Hoa Kỳ mà họ đã
nắm chắc ngăn không cho phép người Pháp lật đổ họ.
Hơn nữa, các sĩ quan và thường dân Pháp không phải
là không bực tức, thậm chí nổi giận mỗi khi nghe
người Mỹ lên lớp về đạo lý cho nước Pháp, mà Hoa
Kỳ kết tội là đã bị xơ cứng trong một chế độ thực dân
lỗi thời, chẳng hiểu gì về sự diễn tiến của trào lưu
lịch sử.
Hãy nghe một thành viên Hoa Kỳ trong ủy ban của
trường Đại học Michigan được phái sang Sài Gòn để
giúp Diệm tổ chức bộ máy hành chính của mình,
miêu tả chế độ của Pháp ở Đông Dương:
"Sự cùng khổ đi đôi với những điều sỉ nhục. Một đất
nước với đông đảo người biết chữ đã bị biến thành
một quốc gia mà 80% dân số không biết đọc, biết
viết. Các nhà nho theo khổng giáo vốn trước kia là
những nhà lãnh đạo về chính trị và văn hóa của đất
nước thì về sau bị họ rắp tâm làm cho biến mất, thế
nhưng trong hàng chục năm trời, người ta quyết
không cho người Việt Nam được hưởng một nền giáo
dục hiện đại và khoa học, mà chỉ là một nền giáo dục
lỗi thời, chất lượng lại rất tồi, và chỉ dành cho một
thiểu số ít ỏi đến nực cười
Sự sỉ nhục dành cho những người Việt Nam có học
đã sản sinh ra những nhà cách mạng, những lãnh tụ
của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Cuộc đời cùng khổ
của nông dân, và sau đó sự cùng khổ của những công
nhân ở các hầm mỏ và đồn điền giải thích vì sao các
cán bộ của phong trào dân tộc, sau mỗi lần thất bại lại
có thể tiếp tục tiến công. Những người nắm quyền cai
trị ở Pháp và chỉ huy ở Đông Dương không thuộc số
những người có thể làm sáng tỏ cho thế giới hiểu
được ít nhiều về lịch sử và tính chất dân tộc của Việt
Nam. Họ đã bất lực không thể hiểu được rằng, đứng
trên quan điểm lịch sử mà xét, muốn thủ tiêu phong
trào giải phóng dân tộc là một điều vô vọng Chính
sách của nước Pháp đã nằm trong tay quyết định của
những nhóm nhỏ nắm quyền lợi rất hùng hậu, nhưng
cách nhìn thì hạn hẹp, họ đã chưa hề bao giờ dọn
sạch mảnh đất mà đáng ra trên đó đã có thể xây dựng
pháo đài chống Cộng sản ở Việt Nam[31]".
______________________________________
[30] Xem toàn văn trong Debats parlementaire (Biên
bản các cuộc tranh luận ở Quốc hội), ngày 18 tháng
12 năm 1954.
[31] The first five years of Viẹt Nam (Năm năm đầu
tiên của Việt Nam) - Công trình tập thể của nhiều tác
giả ở Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam.
__________________
Những sĩ quan người Pháp bị buộc phải trao lại
quyền chỉ huy và huấn luyện các đội quân người Việt
Nam cho người Mỹ đều bầm gan tím mật nhìn người
của Diệm làm lễ đốt phù hiệu của Pháp. Các cố đạo
người Pháp từ chối không tham dự những buổi lễ
được tổ chức để chào mừng hồng y giáo chủ
Spellman. Về phần mình, Diệm vốn từng làm quan
chức chế độ thực dân của Pháp, sau đó lại cộng tác
với người Nhật, vì vậy y buộc phải dựng lên cho
mình cái danh tiếng là nhà yêu nước không khoan
nhượng. Cho nên, y đã cho mở một chiến dịch bài
Pháp dữ dội trên báo chí của mình, đe dọa đánh vào
những quyền lợi của Pháp. Trong suốt gần hai năm,
các cuộc thương lượng giữa Pháp và Nam Việt Nam
sẽ được đánh dấu bằng nhiều sự cố, và khi nổ ra cuộc
nội chiến giữa chính quyền Diệm với các nhóm thân
Pháp, Paris và Washington lại phải hợp tác với nhau
để lập lại trật tự nhằm thực hiện một chính sách
chung, một chính sách vạch ra thì dễ nhưng thực
hành thì khó.
Việc chuyển giao các thẩm quyền chuyên môn từ tay
người Pháp cho chính quyền Diệm được thực hiện
trôi chảy: lần lượt, các công sở đều được bàn giao
cho các cố vấn Hoa Kỳ tự tay nắm lấy. Ngày 2 tháng
10 năm 1954, Tướng Ely trở về từ Washington đã
đến Cannes để thông báo cho Bảo Đại biết về những
ý định của Chính phủ Pháp. Ngày 10 tháng giêng
năm 1955, viên tướng này tuyên bố với hãng thông
tấn Pháp AFP:
"Chính phủ Pháp mong muốn kết thúc những thương
lượng song phương hiện đang còn dở dang. Mức độ
nước Pháp sẽ tiếp tục giúp đỡ Việt Nam trogn lĩnh
vực kinh tế và văn hóa đương nhiên sẽ phụ thuộc vào
việc chính phủ Việt nam tỏ ra sẵn sàng đến đâu, đặc
biệt là nền kinh tế tư nhân của Pháp sẽ tham gia như
thế nào vào công cuộc phát triển đất nước này."
Lời tuyên bố của Tướng Ely phản ánh rõ tính chất
gay go của cuộc mặc cả, cũng như cho thấy mục tiêu
chủ yếu của Chính phủ Pháp. Pháp đã đòi được Hoa
Kỳ tài trợ một phần lớn những chi phí của đội quân
viễn chinh trong năm 1955; ngày 30 tháng 12 năm
1954, Diệm buộc phải ký với Pháp một thỏa ước về
kinh tế bảo đảm những quyền lợi về kinh tế và
thương mại của Pháp. Đổi lại, Pháp chấp nhận
chuyển giao ngay từ tháng Giêng năm 1955 Viện
phát hành tiền tệ của các Quốc gia Liên hiệp (tức là
ngân hàng Đông Dương trước kia), và sở giao dịch
chứng khoán cho chính quyền Sài gòn. Cũng tháng
Giêng năm 1955, Diệm giành được từ Pháp quyền
trực tiếp kiểm soát các khoản tiền viện trợ của Hoa
Kỳ. Nhưng ngày 7 tháng Giêng, cơ quan Hoa Kỳ
quản lý viện trợ đã cho miền Nam Việt Nam khỏi bị
bắt buộc phải chi tiêu ngay tại Mỹ các khoản tiền xin
được bằng đô la Mỹ, thay cho điều kiện có hiệu lực
cho đến lúc bấy giờ là phần lớn các khoản viện trợ
của Mỹ phải được dùng để mua hàng ngay trên đất
Mỹ. Tuy nhiên, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn dành cho
mình quyền thanh sát các khoản nhập khẩu của Nam
Việt Nam.
Các khoản thương lượng giữa Pháp và Nam Việt
Nam, cũng như các cuộc trao đổi giữa Pháp và Hoa
Kỳ cuối cùng đã đưa đến, vào những tháng đầu năm
1955, việc ký kết những thỏa ước về thuế quanvaf
một hiệp định thương mại có giá trị trong vòng một
năm. Điều làm các nhà kinh doanh người Pháp lo
ngại nhất là sự cạnh tranh của hàng Mỹ và hàng Nhật
Bản sẽ đánh tụt hẳn số lượng hàng hóa Pháp xuất
khẩu sang Nam Việt Nam. Năm 1954, giá trị của
khối hàng xuất khẩu này lên đến 82 tỷ franc Pháp
(tuy nhiên, con số này đã tính cả những gì đã phải
mua cho đội quân viễn chinh). Bắt đầu từ ngày 30
tháng 3 năm 1950, các nhà xuất khẩu Pháp đã có
được sự bảo đảm về thuế quan của chính phủ Diệm,
và sự viện trợ về xuất khẩu từ phía Chính phủ Pháp.
Những đồng đo la viện trợ Mỹ sẽ giúp Nam Việt
Nam thanh toán các khoản họ mua ở Pháp. Theo một
phương thức điều chỉnh được quy định, các nhà xuất
khẩu Pháp sẽ được kho bạc Pháp trả không phải bằng
đồng đô la Mỹ mà bằng đồng fran của Pháp, và kho
bạc Pháp lại nhận được những đồng bạc của chính
quyền Nam Việt Nam. Các xí nghiệp công nghiệp về
thương mại Pháp ở Nam Việt Nam vẫn sẽ được tiếp
tục hoạt động. Đặc biệt, quyền sở hữu của các công
ty Pháp về các đồn điền cao su đã không bị xét lại.