Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

AN GIANG TRƯỚC THẾ KỈ XVII potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.27 KB, 12 trang )

AN GIANG TRƯỚC THẾ KỈ XVII

Di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Óc Eo ở An
Giang

Văn hóa Óc Eo là nền văn hóa cổ ở đồng bằng
sông Cửu Long. Niên đại được xác định từ thế kỉ I
đến thế kỉ VII. Người ta biết đến nền văn hóa Óc
Eo là nhờ thư tịch cổ và các thành tựu khảo cổ học
do người Pháp phát hiện. Năm 1944, nhà khảo cổ
học người Pháp Lu-i Man-lê-rơ (Louis Malleret)
thuộc trường Viễn Đông bác cổ Đông Dương đến
Ba Thê (huyện Thoại Sơn) khai quật di chỉ Óc Eo.
Nơi đây có nhiều di tích nhà cửa, mẫu gạch, đá,
nhiều đồ kim khí, tiền vàng Chủ nhân của nền
văn hóa này là người Phù Nam.

Các di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Óc Eo được
tìm thấy ở hầu hết các tỉnh Nam Bộ. Tại An
Giang, các di chỉ được phân bố trên nhiều địa
hình khác nhau: ở triền đồi núi như núi Ba Thê,
núi Sập (huyện Thoại Sơn), núi Sam (thị xã Châu
Đốc), ở đồng bằng như Giồng Cát, Giồng Xoài (thị
trấn Óc Eo, Thoại Sơn), Định Mỹ, Tráp Đá (xã
Định Mỹ, huyện Thoại Sơn), Lò Mo (xã Mỹ Phú,
huyện Châu Phú) Người ta còn phát hiện nhiều
đấu vết đường nước cổ chạy từ thị xã Châu Đốc
qua núi Sam - Bảy Núi - Ba Thê - Nền Chùa (Kiên
Giang).

Đời sống vật chất của người Phù Nam trong nền


văn hóa Óc Eo

Dựa vào sách sử cũ Trung Hoa và phân tích các di
vật khảo cổ học, ngày nay chúng ta có thể hình
dung phần nào cuộc sống của người Phù Nam
cách nay hàng ngàn năm.

Thích ứng với thiên nhiên đồng bằng sông Cửu
Long, người Phù Nam đã duy trì nên kinh tế nông
nghiệp trồng lúa. Ngoài ra còn trồng cây ăn quả
và cây lương thực khác, chăn nuôi (trâu lợn, voi,
ngựa ). Thủ công nghiệp rất phát triển, gồm
nhiều ngành nghề như nghề gốm, nghề mộc, nghề
đóng thuyền, nghề đá, nguyền luyện kim (đồ đồng,
sắt, thiếc ).


Bên ngoài thành cổ tại Ba Thê có nhiều di tích nhà
cửa, với nhiều mẫu gạch khác nhau. Ngoài ra,
người ta còn tìm thấy nhiều di vật kim khí, tiền
vàng, tiền đồng, trong đó có huy chương mang
niên hiệu 152 dưới thời vua La Mã An-tô-nen- Lơ
Pi-ơ (Antonin Le Pieux). Điều này chứng tỏ ngày
xưa phố cổ Óc Eo từng là nơi buôn bán thương
mại quan trọng trong vùng Đông Nam Á.

Người Phù Nam ở nhà sàn. Phương tiện đi lại chủ
yếu là thuyền ghe. Nữ mặc váy (xà rông) và nam
mặc khố (xam-pốt). Thức ăn chính là cơm, rau,
thịt, cá.

Đời sống xã hội và tinh thần của người Phù Nam

Đứng đầu vương quốc cổ Phù Nam là vua, người
nắm mọi quyền hành. Xã hội có sự phân biệt giàu
nghèo, với ba tầng lớp chính là quý tộc, bình dân,
nô tì (từ tù binh).
Trích:
Theo Tấn thư: Vua nước Phù Nam vốn là con gái, tên
là Diệp Liễu. Thời đó có người nước ngoài là Hỗn
Hội, thờ tiên thần, nằm mộng thấy thần ban cho cây
cung, và dạy là phải đi thuyền lớn ra biển. Sáng ngày,
Hỗn Hội đến đền thần., được cây cung, rồi theo
thuyền lớn lênh đênh trên biển tới ấp ngoài của nước
Phù Nam. Diệp Liễu đưa nhiều người ra chống lại.
Hỗn Hội dương cung bắn, Diệp Liễu sợ hãi xin hàng,
Hỗn Hội bèn lấy làm vợ và chiếm đất nước
Vào thế kỉ II, Phù Nam trở thành vương quốc
rộng lớn gồm cả vùng Nam Bộ ngày nay và các
vùng phụ cận. Nhà vua có quyền lực rất lớn. Cung
điện làm bằng gỗ. Đền đài có nhiều tầng. Chung
quang có tường thành làm bằng đất, Trong nước
Phù Nam không có nhà tù, đối với những người
sai phạm thì thi hành luật pháp theo phép thần
đoán.

Trò giải trí bình dân và phổ biến nhất là đá gà,
nuôi chim thú, thích săn bắn. Nghệ thuật ca, múa
nhạc khá phát triển. Ngoài ra, người Phù Nam
thích trang trí điêu khắc, chạm trổ. Bức tượng cao
3,3m tạ chùa Linh Sơn (thị trấn Óc Eo, huyện

Thoại Sơn), tượng Bác Chúa Xứ (phường Núi
Sam, thị xã Châu Đốc) là những tượng điêu khắc
tiêu biểu thể hiện người Phù Nam theo đạo Phật
và đạo Bà-la-môn. Người Phù Nam có tục chôn cất
người chết bằng cách hỏa táng. Về chữ viết, người
Phù Nam dùng chữ Phạn có nguồn gốc từ Ấn Độ.

Về tín ngưỡng, đạo Bà-la-môn và đạo Phật rất
thịnh hành trong cuộc sống cư dân Phù Nam. Văn
hóa Óc Eo là nền văn hóa tiêu biểu cho đỉnh cao
về sự phát triển chính trị - kinh tê của nên văn
hóa cổ vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Đến thế kỉ VII, Phù Nam bị Chân Lạp (nằm ở
miền nam nước Lào hiện nay) thôn tính. Nền văn
hóa Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long sau thế kỉ
VII suy vong. An Giang trở thành phần đất thuộc
Thủy Chân Lạp. Do nôi bộ Chân Lạp chiến tranh
liên miên, lại thêm người Khơ-me có thói quen
sinh sống ở vùng cao nên phần lãnh thổ Thủy
Chân Lạp vốn có nhiều đầm lầy, sông rạch, bị bỏ
thành hoang vu, rậm rạp.
Chùa Linh Sơn

Tại chùa Linh Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại
Sơn, Tỉnh An Giang có hai hiện vật cổ, đó là hai
bia đá và tượng Phật bốn tay. Đây là hai hiện vật
thuộc di chỉ văn hoá Óc Eo. Ngôi chùa Linh Sơn
nằm dưới chân núi Ba Thê. Về nguồn góc lịch sử
của hai hiện vật này cho đến nay chưa được xác

định chính xác, nhưng theo các nhà khảo cổ học
thì hai bia đá và tượng Phật bốn có niên đại
khoảng từ thế kỉ II đến thế kỉ VI. Chúng ta được
biết hai bia đá khắc chữ cổ này thuộc koại đá bùn,
dày 0,2m. Chữ viết trên bia có thể là chữ cổ của
người Phù Nam. Trải qua thời gian dài, một bia
chữ bị bào mòn, còn bia chữ kia vẫn còn rõ ràng.


Tượng Phật bốn tay và tấm bia đá cổ

Nguồn gốc tượng Phật bốn tay do nhân dân phát
hiện vào năm 1913 tại khu vựa gần chợ Ba Thê,
mang về đặt lên trên giữa hai bia đá rất khít khao,
từ đó người ta lập chùa thờ tượng này với tên gọi
là Linh Sơn tự (còn gọi là chùa Phật bốn tay).

Chùa Linh Sơn được Bộ Văn hoá – Thông tin
công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật vào năm
1988.
Bà Chúa Xứ Núi Sam

Theo các nhà nghiên cứu, tượng Bà Chúa Xứ núi
Sam là tượng của đạo Bà-la-môn, cao 1,25m, nặng
hơn 1 tấn. Tượng được tạc vào thời kì vương quốc
Phù Nam (khoảng thế kỉ VI – VII). Tượng Bà tiêu
biểu cho nền văn hoá Óc Eo.

Năm 1941, nhà khảo cổ người Pháp Luois
Malleret đến núi Sam nghiên cứu tượng Bà. Ông

cho rằng đây là tượng thần Vishnu. Chất liệu làm
bằng đá son.

Trước đây, tượng được đặt tại đỉnh núi Sam.
Theo truyền thuyết dân gian: Trong thời kì tranh
chấp giữa ta và quân Xiên (Thái Lan) trên vùng
biên giới ngày nay, quân Xiêm đã phát hiện và
định lấy đi, nhưng do tượng quá nặng nên bỏ lại.
Về sau, dân lành Vĩnh Tế (Châu Đốc) phát hiện
định khiêng xuống chân núi để thờ, nhưng tượng
quá nặng khiêng không nổi. Bà “đạp đồng” bảo
rằng: Cần chín cô gái đồng trinh, ăn mặc sạch sẽ
thì mới khiêng được. Dân làng nghe theo. Khi đi
đến địa điểm ngày nay thì tượng bỗng trỡ nên
nặng trĩu. Dân làng Vĩnh Tế lập miếu thờ cho đến
ngày nay.


Miếu Bà Chúa Xứ

Lúc đầu Miếu thờ được làm bằng tre lá đơn sơ.
Khoảng năm 1870, Miếu Bà được xây cất lại to
lớn và khang trang hơn. Đến năm 1972, Miếu Bà
được xây dựng lại về quy mô kiến trúc và đậm nét
nghệ như ngày nay. Hằng năm cứ đến ngày 24, 25
tháng 4 âm lịch là ngày viá chính, vì ngày này dân
làng khiêng tượng đặt chỗ bây giờ.

Năm 2001, Lễ hội vía Bà Chúa Xứ được Chính
phủ công nhận là Lễ hội dân gian cấp Quốc gia.

×