5. Quan hệ với các nước Đông Nam châu Á
Thời Minh Mạng, triều đình nhà Nguyễn có quan hệ
với nhiều nước vùng Đông Nam Á. Mấy năm đầu
còn thưa thớt, về sau quan hệ thường xuyên trong
hàng chục năm liền, năm nào cũng có.
Đầu năm 1824, Miến Điện cho sứ sang thông hiếu và
đưa tặng phẩm: 1 ấn vàng, 40 cái nhẫn, 1 hộp trầu
sơn son, 1 chuỗi trân châu "bất nhiên", 1 bức mền tơ
đỏ, 2 bức tườu đại hồng ti, 2 bức tườu tố hồng ti.
Minh Mạng gửi vua Miến Điện 32 cân quế 100 cây
lụa, 100 cây sa, 100 cây tườu, 1.000 cân đường cát;
tặng chánh sứ Miến Điện 100 lạng bạc, tặng phó sứ
80 lạng bạc, mỗi người 1 áo bào song khai bằng đoạn
thêu và 1 quần; tặng 5 viên bồi sứ, mỗi người 60 lạng
bạc, 1 áo nhung trung khai và 1 quần. Cho 40 quân
tùy tùng mỗi người 4 lạng bạc, 1 áo đoạn đỏ trung
khai và 1 quần.
Đầu năm 1825, triều đình nhà Nguyễn cho người
sang Hạ Châu và Giang Lưu Ba công cán. Hạ Châu
và Giang Lưu Ba là Xanh-ga-po và In-đô-nê-xi-a. Sử
ghi là đi công cán, không rõ là làm gì, hoạt động
ngoại giao hay mua bán hàng hóa. Trong thực tế lịch
sử triều đình Minh Mạng vẫn chưa có quan hệ ngoại
giao chính quyền các nước Đông Nam Á.
Giữa năm 1828, Minh Mạng ra lệnh cấm thuyền buôn
nước ta không được đến buôn bán ở Hạ Châu, vì
thuyền buôn nước ta ở Gia Định thường đem gạo
sang bán ở Hạ Châu. Nhưng từ năm 1830 trở đi cho
đến hết đời Minh Mạng, trong 10 năm liền, quan hệ
buôn bán giữa ta và các nước Đông Nam Á năm nào
cũng có. Ta bán sang các nước này những mặt hàng
như: đường cát, đồng thoi, ngà voi, cánh kiến , và
hàng ta mua thường là: kẽm, súng điển thương, vải
trắng
6. Tiếp xúc với các nước phương Tây
Từ cuối thế kỷ XVIII, trong đội quân mộ của Nguyễn
Ánh để chống phong trào nghĩa quân Tây Sơn đã có
một số người Pháp tới nhập ngũ. Khi Nguyễn Ánh
lên ngôi vua, mấy người Pháp là Chaigneau và
Vannier ở lại làm quan tại triều đình Huế. Họ lấy vợ
Việt Nam, sinh con đẻ cái và sống ở Việt Nam. Cuối
đời Gia Long, Chaigneau về Pháp nghỉ 3 năm. Sau 3
năm nghỉ, Chaigneau được triều đình Pháp cử làm
lãnh sự Pháp ở Việt Nam, đồng thời làm khâm sai
của vua Pháp Louis XVIII, đem phẩm vật tặng vua
Việt Nam và đưa quốc thư Pháp điều đình thông
thương với Việt Nam. Chaigneau sang thì Minh
Mạng đã làm vua thay Gia Long. Minh Mạng cho
viết thư trả lời vua Pháp là hai nước Việt Nam và
Pháp không việc gì phải làm điều ước thương mại.
Tới buôn bán ở Việt Nam thì cứ theo luật pháp của
Việt Nam là được.
Năm 1822, một tàu chiến của Pháp là tàu Cléopâtre
đến cảng Đà Nẵng; thuyền trưởng xin vào triều yết
kiến, Minh Mạng không cho. Trong năm này, người
Anh đưa quốc thư và tặng vật đến xin thông thương.
Tặng vật gồm 500 khẩu súng điển thương và 1 đôi
đèn pha lê. Minh Mạng cũng chối từ.
Đối với người Pháp là Chaigneau và Vannier, thái độ
của Minh Mạng ngày càng lạnh nhạt. Tới đầu năm
1825, Chaigneau và Vannier xin từ chức và từ biệt
triều đình Huế, đem vợ con về Pháp. Mấy người Pháp
ấy đi khỏi thì cũng đầu năm 1825, một đại tá hải quân
Pháp là Bougainville đưa hai tàu chiến Thétis và
Espérance vào cửa Đà Nẵng, đem phẩm vật và quốc
thư Pháp, xin vào Huế yết kiến. Minh Mạng từ chối
không tiếp, không nhận quà tặng, lấy cớ là không có
người biết tiếng Pháp làm phiên dịch.
Mùa thu năm 1825, một tàu buôn Pháp tới buôn bán
ở Đà Nẵng, đưa tặng phẩm của Chaigneau và
Vannier gửi nhà vua. Minh Mạng cho đưa quà tặng
vào kho, coi như hàng mua và trả tiền là 7.680 lạng
bạc. Đáp lại, Minh Mạng cũng gửi thư thăm và quà
tặng cho Chaigneau và Vanmer.
Năm 1826, chính phủ Pháp cho người cháu của
Chaigneau sang làm lãnh sự Pháp ở Việt Nam. Triều
đình Minh Mạng không nhận lãnh sự. Người Pháp
này ở lại Việt Nam một thời gian, năm 1829 trở về
Pháp.
Tháng 12 năm 1827, Lê Văn Duyệt trách vua Minh
Mạng đối xử tàn nhẫn với giáo sĩ người Pháp.
Năm 1832, Pháp lại một lần nữa cho người cháu
Chaigneau sang đặt quan hệ lãnh sự, nhưng vẫn
không thành.
Cuối năm 1832, Mỹ đặt quan hệ thông thương, cho
hai người đem quốc thư tới. Sử cũ ghi tên hai người
này theo âm Hán - Việt là Nghĩa Đức Môn, La Bách
Đại. Minh Mạng cho viết thư trả lời tổng thống Mỹ
nói rõ người Mỹ có thể tới thông thương được, chỉ
cần tuân theo pháp luật Việt Nam, chỉ đậu thuyền và
buôn bán tại vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, không
được lên bờ làm nhà, đặt cửa hiệu.
Năm 1835, Minh Mạng ra lệnh cho các tỉnh ven biển
miền Nam, khi thấy có tàu ngoại quốc ghé đậu bến
nào thì quan coi bến phải đem thông ngôn tới xét hỏi
tàu từ đâu tới, tàu chiến hay tàu buôn và báo về triều
đình Huế ngay. Nếu là tàu chiến thì một mặt tâu về
triều, một mặt cho quân cảnh giới nghiêm ngặt và tư
đi các tỉnh lân cận đề phòng bất trắc. Ngày nào tàu đi,
hoặc đóng lại làm gì, đều phải tâu luôn. Minh Mạng
chỉ cho phép các tàu buôn phương Tây vào đậu và
buôn bán ở Đà Nẵng như đã có lệnh từ trước, không
được vào buôn bán ở các bến khác.
Đầu năm 1837, một tàu buôn của Anh qua bãi Hoàng
Sa bị cạn, hơn 90 người trên thuyền phải ghé vào trú
ở bãi biển Bình Định. Minh Mạng cho bố trí chỗ ở và
cung cấp tiền gạo cho họ. Chủ tàu và những quan
chức Anh trên tàu rất cảm động và cảm ơn. Minh
Mạng cho Nguyễn Tri Phương và một số người tùy
tùng đem tàu đưa những người Anh này sang Hạ
Châu, để từ đấy họ trở về nước.
Nếu chỉ có quan hệ giao thương như thế thì sự tiếp
xúc giữa triều đình nhà Nguyễn với người phương
Tây, dù không hữu nghị cũng không có gì phiền phức
xảy ra. Nhưng giao thương lại có vấn đề truyền giáo
đi kèm. Minh Mạng không bằng lòng cho người
phương Tây truyền đạo Gia Tô vào Việt Nam.
Năm 1825, tàu Thétis của Pháp vào Đà Nẵng, cho tới
khi đi tình hình êm đẹp. Nhưng khi tàu rời bến thì có
một giáo sĩ Pháp là Rogerot lén lút ở lại Việt Nam, đi
giảng đạo các nơi. Do đó, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm
đạo. Chỉ dụ nhấn mạnh "Đạo phương Tây là tả đạo,
làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục cho
nên phải nghiêm cấm để người ta phải theo chính
đạo" .
Đầu năm 1833, Minh Mạng ra chỉ dụ cấm đạo lần thứ
hai. Các giáo sĩ bị lùng bắt, trục xuất.
Giữa năm 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm giữ Sài
Gòn. Trong hàng ngũ của Lê Văn Khôi có nhiều dân
theo đạo, có linh mục, có cả giáo sĩ ngoại quốc. Khi
cuộc nổi dậy bị dẹp tan, một giáo sĩ Pháp là
Marchand cùng năm thủ lĩnh cuộc nổi dậy bị xử tử tại
Huế.
Một giáo sĩ Pháp khác là Gagelin bị bắt ở Bình Định
cũng bị đưa về xứ tử tại Huế ngày 17 tháng 10 năm
1833. Trong những năm sau, khoảng mười giáo sĩ
nữa bị giết.
Năm 1836, Minh Mạng ra lệnh cấm đạo lần thứ tư.
Lần này, lý do cấm đạo được nói rõ là vì các giáo sĩ
nước ngoài phạm tội "do thám ngoại quốc".
Cuối năm 1839, Minh Mạng cho các quan Trần Viết
Xương, Tôn Thất Thường đem hai người thông ngôn
đi tàu sang Pháp, lấy cớ đi mua đồ, để điều đình với
chính phủ Pháp đặt quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Nhưng các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam báo về Pháp là
triều đình Việt Nam tàn sát giáo sĩ, giáo dân, chính
phủ không nên tiếp. Giáo hội Va-ti-căng cũng đề
nghị với Pháp như vậy. Do đó, khi phái đoàn ngoại
giao của triều đình Việt Nam tới Pháp, vua Louis
Philippe và triều đình Pháp không tiếp. Phái đoàn này
về tới Huế thì Minh Mạng không còn. Minh Mạng
chết ngày 28 tháng 12 năm Canh Tý (1840). Thiệu
Trị là con trưởng lên nối ngôi.
__________________