NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI GANODERMA BẰNG 
MỒI PCR ĐẶC HIỆU CHO GEN SUPEROXIDE 
DISMUTASE 
 
Nguyễn Hoài Giang 
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
Nguyễn Xuân Hùng, Lê Đình Lương 
Trung tâm Công nghệ Sinh học, ĐHQG Hà nội 
 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
 
Trong tự nhiên chi Ganoderma rất đa dạng và không phải 
tất cả các loài này đều sản sinh ra các hợp chất sinh học có 
tác dụng như nhau, nên việc phân loại chính xác chúng 
không phảI chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn mang tính thực 
tiễn. Sự phân loại Ganoderma được thực hiện đầu tiên dựa 
trên màu sắc và hình thái, tiếp theo là phân loại bằng các 
isozym, và gần đây là ở mức độ ADN (2, 3, 4). Trong 
nghiên cứu trước chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật RAPD và 
PCR với mồi đặc hiệu cho gen laccase để phân loại một số 
chi Ganoderma ở Việt nam (4). Từ những kết quả thu được, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu các chỉ thị phân tử mới 
nhằm phân loại Ganoderma chính xác và cụ thể hơn. 
 
Enzym superoxide dismutase (SODs) có vai trò quan trọng 
trong cơ chế bảo vệ của tế bào. Gốc O
2
 - gây độc cho tế bào 
và SODs xúc tác quá trình chuyển O
2
 - thành O
2
 và chuyển 
O
2
 - và H - thành H
2
O
2
. SODs được phát hiện có tồn tại 
trong các tế bào từ vi khuẩn đến thực vật và động vật bậc 
cao (5). Đến nay người ta đã biết có 4 loại SODs, sự phân 
chia này dựa trên các nguyên tố kim loại có ở vị trí hoạt 
động của enzym này: Mn SOD, Fe SOD, Cu, Zn SOD và 
Ni SOD. Enzym Mn SOD giống nhau đến 65% giữa các 
loài thực vật và chúng có độ tương đồng cao với vi khuẩn. 
Mỗi phân tử Mn SOD mang một nguyên tử mangan và 
enzym này không hoạt động được nếu không có nguyên tử 
mangan ở vị trí hoạt động. So sánh trình tự axít amin của 
các SODs cho thấy Mn SOD và Fe SOD có nguồn gốc cổ 
hơn so với các loại SODs còn lại, và có nhiều khả năng 
chúng tiến hoá từ một loại enzym ban đầu. Ngược lại, Cu-
Zn SODs lại không có trình tự tương tự với Mn SOD và Fe 
SOD và có thể chúng tiến hoá riêng biệt trong quá trình 
phát triển của các tế bào nhân chuẩn (5, 6).  
Trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu phương pháp sử 
dụng kỹ thuật PCR với cặp mồi đặc hiệu cho gen Mn SOD 
để phân loại và xếp nhóm cho Ganoderma ở Việt nam.   
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Vật liệu  
Các mẫu nấm Ganoderma lucidum với các dưới loài khác 
nhau được ký hiệu là Gl 1 và Gl 2; Ganoderma australe 
sensulato với các dưới loài khác nhau được ký hiệu là Ga 1 
và Ga 2; Ganoderma applanatum sensulato với các dưới 
loài khác nhau được ký hiệu là Gb 1 và Gb 2; Ganoderma 
tortnatum sensulato với các dưới loài khác nhau được ký 
hiệu là Gc 1 và Gc 2; Ganoderma australe được ký hiệu là 
Gau, do GS. Trịnh Tam Kiệt, phòng Giống nấm gốc, Trung 
tâm Công nghệ Sinh học, Đại học Quốc gia Hà nội cung 
cấp.   
2. Phương pháp nghiên cứu   
• ADN được tách chiết từ các mẫu Ganoderma theo 
Nguyễn Thị Kim Dung và Lê Đình Lương, có cải tiến, để 
tăng số lượng ADN thu được (7).  
• PCR với mồi đặc hiệu cho gen Mn SOD của 
Ganoderma australe là FGau 1 và RGau 1.  
• PCR với mồi đặc hiệu cho gen Mn SOD của 
Ganoderma lucidum và Ganoderma australe là FGau 1 và 
RGau 2.  
• Điện di sản phẩm PCR trên gel polyacrylamid 6% và 
nhuộm bạc (8).    
KẾT QUẢ, THẢO LUẬN  
1. Thiết kế các cặp mồi của gen Mn SOD để phân loại 
Ganoderma  
Trong nghiên cứu trước (4) sử dụng kỹ thuật PCR với mồi 
ngẫu nhiên (OPU1: 5'- ACGGACGTCA -3') và cặp mồi 
đặc hiệu laccase (LA1: 5'- CAT TGG CAC GGA TTC 
TTC -3’ và LA2: 5'- ATG GCT GTG GTA CCA GAA -3'), 
các mẫu Ganoderma nghiên cứu đã được phân ra thành các 
nhóm: (i) Ganoderma lucidum với sản phẩm PCR 217 bp 
hoặc 144 bp của gen laccase, (ii) Ganoderma australe và 
Ganoderma tortnatum sensulato với sản phẩm PCR 144 bp 
của gen laccase và (iii) Ganoderma applanatum sensulato 
và Ganoderma australe sensulato không tạo sản phẩm PCR 
với cặp mồi LA 1 và LA 2.  
Trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng gen mã hoá enzym 
Mn SOD để phân loại cụ thể hơn các mẫu Ganoderma nêu 
trên. Khai thác dữ liệu từ Ngân hàng gen quốc tế 
(Genbank) và kết quả sử dụng phần mềm chuyên dụng 
Blast (www.ncbi.nlm.nih.gov) để so sánh trình tự gen Mn 
SOD của Ganoderma lucidum (số hiệu U56134, Genbank) 
với trình tự gen Mn SOD của Ganoderma australe (số hiệu 
U56112, Genbank) cho thấy gen Mn SOD của hai loài này 
có độ tương đồng khá cao (các nucleotid giống hệt nhau 
được thể hiện bằng các dấu *, Hình 1). Tuy nhiên, trong 
gen Mn SOD của Ganoderma lucidum và Ganoderma 
australe cũng có những đoạn trình tự khác biệt đặc trưng 
riêng cho từng loài (thể hiện bằng các khoảng trống hoặc 
dấu -, Hình 1). Sử dụng các đoạn có trình tự giống hệt nhau 
của hai loài Ganoderma này, chúng tôi thiết kế mồi xuôi 
(FGau 1) và mồi ngược (RGau 2) để nhân các đoạn trong 
gen Mn SOD. Ngoài ra, sử dụng đoạn trình tự khác biệt đặc 
hiệu của Ganoderma australe, chúng tôi đã thiết kế một 
mồi ngược dành riêng cho loại Ganoderma này với ký hiệu 
RGau 1.   
Trình tự các mồi như sau:  
FGau 1: 5’-GAA GCA CCA CCA GAC CTA CGT G-3’  
RGau 1: 5’-ATC GAG AGA GGC CGA AGC ACC-3’  
RGau 2: 5’-AGA CGT CGA CGC CGA TGA TGG-3’   
Theo cách thiết kế các mồi nêu trên, khi tiến hành phản ứng 
PCR với cặp mồi FGau 1và RGau 1 thì Ganoderma 
australe dự kiến sẽ cho 1 băng ADN với kích thước khoảng 
461 bp; và sẽ không có sản phẩm PCR với Ganoderma 
lucidum. Ngược lại khi tiến hành phản ứng PCR với cặp 
mồi FGau 1và RGau 2 thì Ganoderma australe dự kiến sẽ 
cho 1 băng ADN với kích thước khoảng 755 bp, còn với 
Ganoderma lucidum dự kiến sẽ cho 1 băng ADN với kích 
thước khoảng 693 bp.     
Hình 1. So sánh trình tự gen Mn SOD của Ganoderma 
lucidum và Ganoderma australe.  
Gl : Ganoderma lucidum  
aut: Ganoderma australe  
 >: Chiều và vị trí các mồi   
2. Sử dụng gen Mn SOD để phân loại Ganoderma  
Để sử dụng được gen Mn SOD trong phân loại 
Ganoderma, đầu tiên chúng tôi tiến hành tối ưu hoá điều 
kiện PCR theo nhiệt độ gắn mồi tính toán được từ các mồi 
(FGau 1, RGau1 và RGau 2) và kích thước sản phẩm PCR 
dự đoán sẽ tạo ra. Điều kiện PCR sau khi tối ưu hoá với cặp 
mồi FGau 1và RGau 1 là 94
o
C 3 phút/ 35 chu kỳ với 94
o
C 
20 giây, 65
o
C 30 giây, 72
o
C 40 giây/ 72
o
C 3 phút. Kết quả 
điện di và nhuộm bạc trên gel polyacrylamid 6% cho thấy, 
đúng như dự đoán của chúng tôi, cặp mồi FGau 1và RGau 
1 cho phép khuyếch đại 1 phần của gen Mn SOD ở 
Ganoderma australe (Gau) với kích thước khoảng 461 bp 
(Giếng 7, Hình 2). Trong khi đó các mẫu Ganoderma 
lucidum (Gl 1 và Gl 2), Ganoderma tortnatum sensulato 
(Gc 1 và Gc 2), Ganoderma australe sensulato (Ga 1 và Ga 
2) và Ganoderma applanatum sensulato (Gb 1 và Gb 2) 
đều không tạo ra sản phẩm PCR với cặp mồi này (Hình 2).     
Hình 2. Khuyếch đại PCR đoạn gen Mn SOD bằng cặp mồi 
đặc hiệu của Ganoderma australe (FGau 1 và RGau 1)   
Giếng 1 và 2: Ganoderma australe sensulato (Ga 1 và Ga 
2).  
Giếng 3 và 4: Ganoderma applanatum sensulato (Gb 1 và 
Gb 2).  
Giếng 5 và 6: Ganoderma tortnatum sensulato (Gc 1 và Gc 
2). 
 Giếng 7: Ganoderma australe (Gau).  
Giếng 8 và 9: Ganoderma lucidum (Gl 1 và Gl 2).  
Mr: Thang ADN chuẩn (25/100 ladder - Bioneer)   
Tương tự với thí nghiệm trên, điều kiện PCR sau khi tối ưu 
hoá với cặp mồi FGau 1 và RGau 2 là 94
o
C 3 phút/ 35 chu 
kỳ với 94
o
C 20 giây, 68
o
C 30 giây, 72
o
C 50 giây/ 72
o
C 5 
phút. Kết quả điện di cho thấy, cặp mồi FGau 1và RGau 2 
cho phép khuyếch đại 1 đoạn của gen Mn SOD ở 
Ganoderma australe (Gau) với kích thước khoảng 755 bp; 
cặp mồi này cũng cho phép khuyếch đại 1 đoạn của gen Mn 
SOD ở Ganoderma lucidum (Gl 1 và Gl 2) với kích thước 
khoảng 693 bp. Trong khi đó các mẫu Ganoderma 
tortnatum sensulato (Gc 1 và Gc 2), Ganoderma australe 
sensulato (Ga 1 và Ga 2) và Ganoderma applanatum 
sensulato (Gb 1 và Gb 2) đều không tạo ra sản phẩm PCR 
với cặp mồi này (Hình 3). Một điểm cần lưu ý là tất cả các 
mẫu Ganoderma đem tiến hành nghiên cứu với các mồi 
FGau 1, RGau1 và RGau 2 đều đã cho kết quả PCR dương 
tính với mồi ngẫu nhiên OPU 1 (4), nghĩa là ADN của tất 
cả các mẫu này đều được tách chiết tốt. Như vậy, nguyên 
nhân của việc không tạo ra sản phẩm PCR ở đây là do trình 
tự gen Mn SOD các loài Ganoderma khác nhau là không 
giống nhau.  
Trong nghiên cứu trước (4) kết quả khuyếch đại gen 
laccase với cặp mồi (LA 1 và LA 2) của Ganoderma 
australe và Ganoderma australe sensulato cho thấy chỉ tạo 
ra sản phẩm PCR (144 bp) với Ganoderma australe mà 
không tạo ra sản phẩm với Ganoderma australe sensulato. 
Kết hợp kết quả đó với kết quả khuyếch đại gen Mn SOD 
cho thấy Ganoderma australe và Ganoderma australe 
sensulato, tuy tên khoa học trong phân loại không khác xa 
nhau nhiều, nhưng trình tự gen có sự khác biệt rõ rệt.    
Hình 3. Khuyếch đại PCR đoạn gen Mn SOD bằng cặp mồi 
đặc hiệu của Ganoderma australe và Ganoderma lucidum 
(FGau 1 và RGau 2)   
Giếng 1 và 2: Ganoderma lucidum (Gl 1 và Gl 2).  
Giếng 3: Ganoderma australe (Gau).  
Giếng 4 và 5: Ganoderma tortnatum sensulato (Gc 1 và Gc 
2).  
Giếng 6 và 7: Ganoderma applanatum sensulato (Gb 1 và 
Gb 2).  
Giếng 8 và 9: Ganoderma australe sensulato (Ga 1 và Ga 
2).  
Mr: Thang ADN chuẩn (25/100 ladder - Bioneer)  
Kết hợp kết quả nghiên cứu bằng mồi OPU1, mồi cho gen 
laccase và các mồi cho gen Mn SOD, chúng ta có thể thấy 
việc phân loại Ganoderma được hệ thống theo bảng sau:   
Bảng 1. Kết quả phân loại Ganoderma ở mức độ ADN    
Bảng trên cho thấy, nếu một mẫu Ganoderma chạy PCR 
với cặp mồi LA 1 và LA 2 tạo ra một hoặc hai băng có kích 
thước 217 hoặc 144 bp, không cho sản phẩm PCR với cặp 
mồi FGau 1 và RGau 1, tạo ra sản phẩm PCR có kích thước 
693 bp với cặp mồi FGau 1 và RGau 2, thì mẫu này sẽ 
thuộc Ganoderma lucidum. Nếu một mẫu Ganoderma chạy 
PCR với cặp mồi LA 1 và LA 2 tạo ra một băng có kích 
thước 144 bp, tạo ra sản phẩm PCR có kích thước 461 với 
cặp mồi FGau 1 và RGau 1, tạo ra sản phẩm PCR có kích 
thước 755 bp với cặp mồi FGau 1 và RGau 2, thì mẫu này 
sẽ thuộc Ganoderma australe. Nếu một mẫu Ganoderma 
chạy PCR với cặp mồi LA 1 và LA 2 tạo ra một băng có 
kích thước 144 bp, không tạo ra sản phẩm PCR với cặp mồi 
FGau 1 và RGau 1, cũng không tạo ra sản phẩm PCR với 
cặp mồi FGau 1 và RGau 2, thì có nhiều khả năng mẫu này 
sẽ thuộc Ganoderma tortnatum sensulato. Việc phân loại 
Ganoderma applanatum sensulato và Ganoderma australe 
sensulato sẽ dựa trên các băng đặc hiệu của mồi OPU1 và 
sẽ được chúng tôi thực hiện trong các nghiên cứu tiếp theo.    
KẾT LUẬN  
Đã khuyếch đại được gen Mn SOD của Ganoderma 
australe và Ganoderma lucidum bằng các cặp mồi đặc 
hiệu.  
Gen Mn SOD cũng là một chỉ thị phân tử có triển vọng để 
ứng dụng trong việc phân loại và định nhóm Ganoderma ở 
Việt nam.   
LỜI CẢM ƠN  
Công trình này được hoàn thành với sự hỗ trợ của Chương 
trình Nghiên cứu Cơ bản trong lĩnh vực Khoa học Tự 
nhiên, hướng 8.2  
This work was supported by the National Basis Research 
Program for Natural Sciences, direction 8.2   
TÀI LIỆU THAM KHẢO   
1. Jong, S. C., and Birmingham, M. J. (1992). Medical 
benefits of the mushroom Ganoderma. Advance and 
Applied Microbiology. 37, pp. 101-134.  
2. Hseu R., Wang H. H., Wang F. H., and Moncalvo M. 
J. (1996). Differentiation and grouping of isolates of the 
Ganoderma lucidum complex by random amplified 
polymorphic DNA- PCR compared with grouping on the 
basis of internal transcribed spacer sequences. Applied and 
Environmental Microbiology. 62(4), pp. 1354-1363.  
3. D’souza, M. T., Boominathan, K., and Reddy A.C. 
(1996). Isolation of Laccase Gene-Specific Sequences from 
White Rot and Brown Rot Fungi by PCR. Applied and 
Environmental Microbiology. 62(10), pp. 1354-1363.  
4. Nguyễn Hoài Giang, Nguyễn Xuân Hùng, Trịnh Tam 
Kiệt, Lê Đình Lương. (2005). Nghiên cứu khả năng phân 
loại chi Ganoderma bằng kỹ thuật phân tử RAPD-PCR và 
mồi đặc hiệu laccase. Tạp chí Di truyền học và Ứng dụng. 
Số 1, trang 5-9.  
5. Alscher, R. G., Erturk, N., and Heath, L. S. (2002). 
Role of superoxide dismutases (SODs) in controlling 
oxidative stress in plants. Journal of Experimental Botany. 
53(372), pp. 1331-1341.  
6. Noor, R., Mittal, S., and Iqbal, J. (2002). Superoxide 
dismutase - applications and relevance to human diseases. 
Med Sci Monit. 8(9), pp. 210-215.  
7. Nguyễn Thị Kim Dung, Lê Đình Lương. (2004). 
Nghiên cứu khắc phục khó khăn trong tách chiết ADN và 
bất hoạt ức chế PCR ở Ganoderma. Tạp chí Di truyền học 
và Ứng dụng. Số 4, trang 1-7.  
8. Sambrook, J., Frisch, E. F., and Maniatis, T. (1989). 
Molecular Cloning. Cold Spring Harbor Laboratory Press, 
USA.    
SUMMARY  
Classification of the Ganoderma complex by PCRing 
with the specific primers for superoxide dismutase gene  
Ganoderma species are known as the valuable herbs. 
RAPD-PCR and PCR with the specific primers of laccase 
gene or the internal transcribed spacers (ITS) of the 
ribosomal gene are the most sensitive and efficient methods 
currently available for distinguishing between different 
strains of Ganoderma species.  
Superoxide dismutases (SODs) are essential enzymes in the 
cellular defense mechanism, which catalyse the 
disproportion of superoxide radicals to dioxygen and 
hydrogen peroxide. SODs are found abundantly in many 
organisms, from microorganisms to plants and animals, 
since superoxide radicals are toxic to living cells, oxidizing 
and degrading biologically important molecules, such as 
lipids and proteins. Four different types of SODs are 
known, each containing a different metal ion at the active 
site: manganese-containing superoxide dismutase (Mn 
SOD); iron-containing superoxide dismutase (Fe SOD); 
copper-and zinc-containing superoxide dismutase (Cu, Zn 
SOD); nickel-containing superoxide dismutase (Ni SOD). 
Plant Mn SOD have approximately 65% sequence 
similarity to one another, and these enzymes also have high 
similarities to bacterial Mn SODs. Mn SODs occur in 
mitochondria and peroxisomes. Mn SODs carry one metal 
atom per subunit. These enzymes can not function without 
the Mn atom present at the active site. Comparison of 
deduced amino acid sequences from these SODs suggest 
that Mn and Fe SODs are more ancient types of SODs, and 
these enzymes most probably have arisen from the same 
ancestral enzyme, whereas Cu-Zn SODs have no sequence 
similarity to Mn and Fe SODs and probably have evolved 
separately in eukaryotes.  
RAPD-PCR, PCR for the laccase gene (our previous study) 
and PCR with the specific primers of Mn SOD gene 
demonstrated that they could be used for classification of 
Ganoderma complex in Vietnam. 
  Người thầm định nội dung khoa học: TS. Dương Văn Hợp