HIỆP ĐỊNH PA-RI VỀ VIỆT NAM:
NHỮNG BÀI HỌC NGOẠI GIAO
1 - Kết hợp ngoại giao với đấu tranh quân sự, chính trị, đàm phán
với chiến trường
Do đặc điểm của cuộc chiến tranh và thời đại, để chống Mỹ và thắng
Mỹ, Việt Nam phải chiến đấu trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại
giao. Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965) nêu rõ: "Trong
quan điểm đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, ta phải giữ vững quyết tâm
chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị ngoại giao
khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tấn công địch,
nêu cao ngọn cờ độc lập hòa bình nhằm tranh thủ dư luận thế giới và cô
lập hơn nữa đế quốc Mỹ"(1). Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969
nhấn mạnh "Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng có ý nghĩa
chiến lược". Trung ương thấy rõ đặc điểm của chiến tranh, đặt vấn đề
Việt Nam trong toàn cảnh thế giới, ứng phó với cuộc chiến tranh theo
phương thức tối ưu ngang tầm phát triển của thời đại. Ngoại giao và đàm
phán làm nhiệm vụ thường xuyên tấn công địch, góp phần tranh thủ dư
luận, cô lập kẻ thù, hỗ trợ chiến trường. Mỗi bước phát triển của từng
hoạt động lớn trên chiến trường đều luôn có đàm phán phối hợp.
Để phát huy tốt vai trò của ngoại giao hỗ trợ chiến trường, từ đầu cuộc
chiến tranh, chúng ta đã tính đến phương thức "vừa đánh vừa đàm".
Cuộc đàm phán Pa-ri là sự vận dụng phương thức "vừa đánh vừa đàm" ở
tầm cao và nhiều hiệu quả.
Sự phối hợp giữa đàm phán với chiến tranh quân sự đưa đến thành công
rõ rệt nhất là góp phần giành thắng lợi từng bước, buộc địch phải xuống
thang từng bước, làm thay đổi dần so sánh lực lượng và thế trận trên
chiến trường. Đầu năm 1967, ngoại giao đòi Mỹ chấm dứt ném bom
miền Bắc. Tổng tấn công Tết Mậu Thân buộc Mỹ thực hiện đòi hỏi đó
bằng bước hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Rồi mùa thu năm 1968, đàm phán phát huy thắng lợi quân sự và lợi
dụng khó khăn nội bộ Mỹ năm bầu cử, buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn
ném bom miền Bắc. Từ năm 1969, bước vào Hội nghị bốn bên, chúng ta
thực hiện Chỉ thị của Trung ương là: "Đẩy địch xuống thang một bước
trên chiến trường chính, ép Mỹ đơn phương rút một bộ phận quân
Mỹ"(2). Sức mạnh tổng hợp của ta cùng phong trào phản chiến đang
dâng cao ở Mỹ đã buộc chính quyền Mỹ phải rút trên 400.000 quân Mỹ
trong 3 năm, tạo thuận lợi quan trọng cho chiến trường. Mỹ rút quân
hòng chuyển sức ép sang phía ta, nhưng đàm phán đã góp phần tiếp tục
tạo sức ép đòi Mỹ rút nhanh, rút hết.
Đàm phán hỗ trợ chiến tranh quân sự đánh bại chính sách "Việt Nam
hóa chiến tranh" của Ních-xơn, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri rút hết
quân Mỹ. Đây là bước "xuống thang" lớn nhất của Mỹ, là thắng lợi cao
nhất của ta trong đàm phán phối hợp với chiến trường.
Thực tế lịch sử chứng minh: trong khi thực lực và thắng lợi trên chiến
trường đóng vai trò quyết định thì ngược lại, đấu tranh trên bàn đàm
phán cũng góp phần tác động đến thắng lợi trên chiến trường và kịp thời
phát huy thắng lợi chiến trường để giành thắng lợi lớn hơn.
Chúng ta phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao - đàm phán với đấu tranh
quân sự là có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, lấy tình
thế và yêu cầu của chiến trường làm cơ sở, kết hợp xem xét tình hình và
dư luận quốc tế cùng tình hình nội bộ Mỹ để quyết định bước đi và biện
pháp ngoại giao tối ưu nhất.
2 - Kiên định quan điểm độc lập tự chủ của Đảng là bảo đảm cơ bản
cho đàm phán thành công
Việt Nam bước vào đàm phán với Mỹ trong tình hình quốc tế phức tạp,
chiến tranh lạnh gay gắt, quan hệ Xô - Trung căng thẳng, phong trào
cách mạng thế giới khủng hoảng về đường lối, quan điểm
Rút kinh nghiệm từ Hội nghị Giơ-ne-vơ 1945, Việt Nam xác định giữ
độc lập tự chủ trong kế sách đánh - đàm với Mỹ. Các nước anh em bạn
bè góp ý, ta trân trọng, tham khảo nhưng ta tự quyết định phương sách
giành thắng lợi của ta, tự ta quyết định thời cơ bắt đầu, bước đi bài bản
của đàm phán. Đầu năm 1965, 14 nước không liên kết kêu gọi ta ngồi
nói chuyện với Mỹ. Ta giải thích để họ hiểu. Với các gợi ý của Liên Xô
về tiếp xúc, ta trao đổi chân tình để bạn ủng hộ lập trường của ta. Đầu
năm 1968, dù Trung Quốc phản đối, ta vẫn đi vào đàm phán với Mỹ
nhưng kiên trì giải thích, đồng thời thường xuyên thông báo diễn biến
đàm phán cho bạn.
Thời kỳ khó khăn nhất cho ta là lúc chính quyền Mỹ đi vào hòa hoãn với
Liên Xô, Trung Quốc (năm 1972) nhằm ép hai nước giảm sự giúp đỡ
Việt Nam. Trong phiên họp ngay sau chuyến cùng Ních-xơn thăm Trung
Quốc và Liên Xô, Kít-xinh-giơ trong gặp riêng với đồng chí Lê Đức Thọ
đã nêu câu hỏi thăm dò "Ngài cố vấn (Lê Đức Thọ) qua Bắc Kinh và
Mát-xcơ-va chắc có nghe các bạn của Ngài thông báo ý kiến của chúng
tôi trong cuộc đàm phán này?". Đồng chí Lê Đức Thọ trả lời ngay:
Chúng tôi chiến đấu chống lại quân đội các ông và chúng tôi đàm phán
với các ông tại bàn Hội nghị. Các bạn chúng tôi hết lòng ủng hộ nhưng
không làm thay chúng tôi được (3).
Sau Tổng tấn công xuân hè năm 1972, thời cơ tới. Ta quyết định đi vào
đàm phán thực chất. Suốt cuộc đàm phán, ta phát huy được độc lập tự
chủ là do có đường lối chung đúng, ta tự điều hành chiến tranh, tự điều
hành đàm phán, không để một sức ép bên ngoài nào tác động; ta hiểu
chiến lược và con bài đàm phán, chỗ mạnh, chỗ yếu của Mỹ; về cơ bản
ta nắm được chiều hướng chung của tình hình quốc tế; ngoại giao ta rút
được kinh nghiệm lịch sử và có bước trưởng thành.
3 - Đàm phán để tranh thủ dư luận, tập hợp lực lượng quốc tế và tác
động vào nội bộ đối phương
Một thành công lớn của cuộc đàm phán là chúng ta quán triệt phương
châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn cuộc đấu
tranh với Mỹ tại bàn đàm phán với phong trào rộng lớn của nhân dân thế
giới ủng hộ Việt Nam.
Cuộc đấu tranh tại bàn đàm phán trước hết là cuộc đấu tranh để tranh thủ
dư luận. Cuộc đàm phán kéo dài 5 năm nhưng thương lượng thực chất
chỉ trong khoảng 6 tháng. Phần lớn thời gian là đấu lý, đấu tranh phân rõ
phải trái, đúng sai. Chúng ta phát huy chính nghĩa dân tộc và thế mạnh
về pháp lý, xoáy vào chỗ yếu cơ bản của đối phương là yếu về chính trị,
đề cao lập trường chiến đấu của ta, đánh mạnh vào chính sách xâm lược
và tội ác chiến tranh của Mỹ để tranh thủ dư luận, gây khó khăn cho Mỹ
trên trường quốc tế và cả trong nước Mỹ.
Ta duy trì hai diễn đàn, tận dụng diễn đàn công khai với những bài phát
biểu chính thức, những bài chính luận mạnh mẽ nhằm chủ yếu vào dư
luận. Suốt cuộc đàm phán, chúng ta hết sức coi trọng công tác vận động
báo chí. Trong mấy năm đàm phán, hai đoàn Việt Nam tiến hành gần
500 cuộc họp báo, có những cuộc quan trọng do chính các trưởng đoàn
Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình trực tiếp chủ trì. Dư luận thế giới rất quan
tâm đến chiến tranh Việt Nam và cũng rất quan tâm tới tình hình đàm
phán. Các cuộc họp báo là cơ hội quý để tranh thủ giới báo chí, tranh thủ
dư luận. Thế mạnh đạo lý của ta được phát huy có hiệu quả thông qua
hoạt động báo chí. Địa bàn Pa-ri là trung tâm báo chí và đầu mối thông
tin quốc tế tạo thuận lợi cho ta gắn đàm phán với đấu tranh của dư luận.
Để nêu cao thiện chí hòa bình, tranh thủ dư luận, từng thời kỳ, theo sự
chỉ đạo của Đảng, đoàn đàm phán đưa ra các đề nghị hòa bình. Mỗi đề
nghị hòa bình đều khẳng định các đòi hỏi chính đáng của nhân dân Việt
Nam như Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân vô điều kiện, phải
tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đồng thời,
chúng ta trình bày các giải pháp thỏa đáng để giải quyết vấn đề như lập
chính phủ liên hiệp, tổ chức tổng tuyển cử tự do Có những đề nghị ta
nhằm trực tiếp vào nội bộ nước Mỹ, như giữa năm 1971, khi phong trào
đấu tranh của nhân dân Mỹ lên cao, đòi chính quyền rút quân và đưa tù
binh, phi công Mỹ bị bắt về nước, ta đưa ra đề nghị: chính quyền Mỹ
phải định thời hạn rút hết quân từ trước ngày 31-12-1971 và khẳng định
"thời hạn rút hết quân cũng là thời hạn thả hết tù binh". Đề nghị này tác
động mạnh mẽ đến nội bộ nước Mỹ và làm tăng sức ép đòi Oa-sinh-tơn
đáp ứng đề nghị của phía Việt Nam.
Các đề nghị hòa bình của ta đều có sức tấn công mạnh vì dư luận rất
quan tâm đến lập trường hai bên, đến triển vọng đàm phán. Người ta so
sánh các giải pháp cởi mở do phía Việt Nam đưa ra với các giải pháp do
Tổng thống Mỹ nêu chỉ xoay quanh một vấn đề: ngừng bắn, ngừng bắn
có kiểm soát, ngừng bắn toàn Đông Dương! Việc kết hợp đàm phán với
đấu tranh dư luận tiến bộ trên toàn thế giới đã góp phần tranh thủ sự
đồng tình rộng rãi của dư luận, của lương tri loài người. Phối hợp với
thắng lợi trên chiến trường, đấu tranh tại bàn đàm phán đã góp phần mở
rộng và tăng cường mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
Chúng ta thành công trước hết là sự chỉ đạo thống nhất của Đảng đã gắn
đàm phán với chiến trường và quốc tế, đặt đúng nhiệm vụ của đàm phán
trước hết là đấu tranh dư luận, chúng ta nắm chắc ngọn cờ chính nghĩa
dân tộc và thiện chí hòa bình. Đồng thời cũng coi trọng việc tổ chức và
sắp xếp lực lượng có khả năng bảo đảm trận tuyến dư luận và huy động
mọi lực lượng tham gia, phối hợp chặt chẽ việc tuyên truyền vận động
trong nước với công việc của đoàn đàm phán.
4 - Giành thế chủ động trong đàm phán, kiên trì mục tiêu đấu tranh
Nước Mỹ có nền ngoại giao lâu năm, bộ máy ngoại giao lớn, quan hệ
quốc tế rộng và có kinh nghiệm xử lý các vấn đề quốc tế với nhiều đối
tượng khác. Các nhà đàm phán Mỹ như Ha-ri-man, Kít-xinh-giơ là
những nhà ngoại giao sắc sảo, nhiều thủ thuật. Hơn nữa, đàm phán là
thương lượng giữa hai hay nhiều bên bình đẳng. Bởi vậy, trong quá trình
đàm phán với Mỹ, giữ được thế chủ động, kiên trì mục tiêu đề ra là mối
quan tâm lớn của ta trong nghệ thuật đàm phán.
Để tranh thủ thế chủ động trong đàm phán, ta vận dụng tư tưởng đánh
lâu dài, không chịu sức ép nào, kiên trì đấu tranh, lại biết xoáy vào thế
yếu của đối phương là Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam và lại chịu nhiều sức
ép nên phải tìm cách kết thúc sớm chiến tranh, để tranh thủ thế chủ
động trong đàm phán.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ mới chỉ hạn chế ném bom, chứ chưa đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của ta. Ta có thể bác yêu cầu của Mỹ về mở đàm
phán. Nhưng ta cân nhắc yêu cầu của chiến trường và dư luận quốc tế,
đồng ý ngồi nói chuyện với Mỹ. Như vậy, ta đi vào đàm phán trên thế
thắng và thế chủ động. Suốt thời kỳ đàm phán song phương năm 1968,
ta kiên trì một yêu cầu duy nhất: Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền
Bắc. Ta bác mọi đòi hỏi "có đi có lại" của Mỹ. Cuối cùng, ta chủ động
vận dụng sách lược về Hội nghị bốn bên để buộc Mỹ chấm dứt hoàn
toàn ném bom miền Bắc.
Giai đoạn đàm phán thứ hai (1969 - 1971), ta kiên trì đòi Mỹ chấm dứt
chiến tranh, rút hết quân, trên thực tế là đấu tranh để ép Mỹ đơn phương
rút dần quân Mỹ. Mùa thu năm 1971, Mỹ đã "Việt Nam hóa chiến tranh"
được một bước, rút 400.000 quân, Nhà Trắng cho rằng cần thúc đẩy giải
quyết nhanh vấn đề Việt Nam lúc còn quân Mỹ để làm "con bài" mặc cả.
Ngày 11-10-1971, phía Mỹ chuyển cho đoàn ta một đề nghị hòa bình
mới, có một số điểm mềm dẻo. Bộ Chính trị chỉ thị cho đoàn đàm phán
của ta ở Pa-ri: "Thời gian không ủng hộ địch. Do đó Mỹ muốn giải quyết
mau để giảm khó khăn của chúng. Nhưng ta không bị động theo chúng.
Trái lại, ta phải chủ động nắm vững thời cơ để thực hiện ý đồ chiến lược
của ta"(4).
Sau Tổng tấn công xuân hè 1972, ta thấy có khả năng kết thúc chiến
tranh nên đã đưa đàm phán đi vào thực chất, ta nắm quyền chủ động
chuyển giai đoạn đàm phán. Đến tháng 10-1972, để gỡ thế đàm phán
dẫm chân, ta chủ động mở bài, tạm gác vấn đề gây cấn để sớm đi tới
thoả thuận Hiệp định.
Như vậy, về bài bản, bước đi, thời cơ chuyển giai đoạn từ bắt đầu đến
kết thúc đàm phán đều do ta quyết định trên cơ sở gắn đàm phán với
cục diện trên chiến trường, tình hình quốc tế và nội bộ nước Mỹ.
Đi vào đấu tranh trong từng phiên họp, trên các vấn đề lớn, ta cũng phải
biết cách gạt các mũi tên tấn công, các đòn gây sức ép của đối phương
bằng những lý lẽ, lập luận sắc bén, các cách ứng xử quyết liệt. Không
phiên họp nào phía Mỹ không đề cập đến vấn đề "rút quân miền Bắc".
Mỹ xoáy vào vấn đề này nhằm đánh lừa dư luận, gây khó khăn cho ta.
Ta khẳng định: "Thực hiện quyền dân tộc tự vệ thiêng liêng, mọi người
Việt Nam đều có quyền chiến đấu trên bất kỳ mảnh đất nào của Tổ quốc
mình". Sau đó ta đưa ra phương thức "Vấn đề lực lượng vũ trang Việt
Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên Việt Nam giải quyết". Lập
trường này đã được đưa thành một điều khoản (Điều 13) của Hiệp định
Pa-ri. Thời Ních-xơn, Mỹ mấy lần cho ném bom lại một số nơi ở miền
Bắc để gây sức ép, khiến không khí đàm phán căng thẳng. Đoàn đàm
phán ta đến phiên họp đọc bản tuyên bố lên án Mỹ rồi bỏ họp mà không
để đối phương kịp phản ứng. Chủ động bỏ họp như vậy cũng là một
cách tấn công gây tác động mạnh trong dư luận.
Ta giành được thế chủ động trong đàm phán vì chủ động trong điều hành
cục diện cuộc chiến, ta biết phát động và biết kết thúc đấu tranh theo
mưu lược của ta. Mặt khác, đi vào đàm phán, ta nắm chắc chiến trường,
nội bộ Mỹ và xu thế quốc tế để tính toán cung cách và bước đi chặt chẽ,
giữ vững quyền chủ động trong quá trình thương lượng.
5 - Biết nắm thời cơ giành thắng lợi từng bước và từ thắng lợi từng
bước đi tới thắng lợi quyết định
Đánh kẻ thù mạnh, con đường giành thắng lợi bao giờ cũng gian nan
khúc khuỷu. Nghệ thuật đàm phán là biết gắn đàm phán với cục diện
trên chiến trường và xu thế quốc tế để từ đó phát hiện, nắm thời cơ,
giành thắng lợi từng bước. Mục đích giành thắng lợi từng bước là nhằm
cải tiến thế trận, góp phần thay đổi so sánh lực lượng có lợi để bước
sang giai đoạn đấu tranh mới.
Quá trình thực hiện phương châm "vừa đánh, vừa đàm", Việt Nam có
bốn lần giành thắng lợi từng bước. Đó là: 1- Ép Mỹ hạn chế ném bom
miền Bắc; 2 - Buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc; 3 -
ép Mỹ đơn phương rút dần quân Mỹ về nước; 4 - Buộc Mỹ ký hiệp định,
chấm dứt chiến tranh.
1 - Ép Mỹ đi tới hạn chế ném bom miền Bắc là lúc ta đã chế ngự được
địch ở miền Nam sau hai thắng lợi mùa khô và đã bước đầu làm thất bại
chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, dư luận Mỹ và quốc tế đang
mạnh mẽ đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để "nói chuyện". Tấn
công ngoại giao tạo thế, đòn Tết Mậu Thân tạo lực, buộc Mỹ phải hạn
chế ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra Mỹ xuống thang bước đầu
trên thực tế.
2 - Suốt thời gian đàm phán song phương, Việt Nam tập trung đòi Mỹ
chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, Mỹ thì đòi "có đi có lại". Đến
tháng 10-1968, tuy sức ép chiến trường không còn mạnh nhưng đàm
phán lợi dụng khó khăn của Đảng Dân chủ của Tổng thống Giôn-xơn
trong bầu cử, vận dụng sách lược buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném
bom miền Bắc. Mỹ xuống thang thông qua đàm phán. Việt Nam giành
thắng lợi một bước mới, có ý nghĩa chiến lược lớn.
3 - Từ đầu năm 1969, Trung ương chỉ đạo "ép Mỹ xuống thang trên
chiến trường chính". Đó là nhằm lúc Mỹ bị sa lầy ở chiến trường, phong
trào chống chiến tranh ở Mỹ dâng cao, Mỹ phải thay đổi chiến lược, thi
hành chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh". Đàm phán không ngừng
đòi Mỹ rút nhanh, rút hết. Khoét vào chỗ yếu của Mỹ không dám định
thời hạn cụ thể rút hết, ta đưa đề nghị hòa bình 7 điểm ngày 1-7-1971
đòi Mỹ rút hết quân trước 31-12-1971. Kết quả trong 3 năm, Mỹ phải
đơn phương rút 400.000 quân. Ta có điều kiện cải tiến thế trận để đi vào
đánh lớn đầu năm 1972.
4 - Mùa thu năm 1972, sau tổng tấn công xuân hè, Trung ương nhận
định ta có khả năng và thời cơ kết thúc chiến tranh. Chính sách "Việt
Nam hóa chiến tranh" của Ních-xơn thất bại một bước nghiêm trọng.
Mỹ thất bại và vấp nhiều khó khăn ở trong nước và quốc tế. So sánh lực
lượng và thế trận của ta đã cải thiện. Thời cơ đi tới Hiệp định Pa-ri xuất
phát từ thực tế chiến trường nhưng nhân tố nội bộ Mỹ, nhân tố quốc tế
rất quan trọng.
Những bước thắng lợi thông qua đàm phán đòi hỏi ngoại giao phải tính
toán, xác định đúng nguyên tắc để bảo đảm yêu cầu, đồng thời phải tìm
"con bài sách lược" thỏa đáng để kéo đối phương đi vào thỏa hiệp. Buộc
Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc (10-1968) ta giữ nguyên tắc
Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện. Ta vận dụng sách lược mở Hội
nghị bốn bên có chính quyền Sài Gòn tham dự. Để đi tới Hiệp định Pa-ri
1973, ta giữ nguyên tắc "giữ nguyên lực lượng chính trị vũ trang ở miền
Nam". Ta vận dụng sách lược tạm gác vấn đề xóa Thiệu, xóa chính
quyền tay sai. Nhờ vậy, ta buộc Mỹ phải thỏa thuận giải pháp mà hai
bên cùng chấp nhận.
Hiệp định Pa-ri cũng là thắng lợi một bước: Buộc Mỹ chấm dứt chiến
tranh, rút hết quân. Nhưng thắng lợi của Hiệp định là thắng lợi tổng hợp
của ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, là thắng lợi có ý nghĩa
quyết định đối với chiều hướng và kết cục của chiến tranh, mở đường
cho toàn thắng mùa Xuân 1975.
*
* *
Ngày nay tình hình quốc tế đã thay đổi nhiều nhưng những bài học về
nghệ thuật đàm phán Pa-ri luôn sống động. Trong thời đại vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, thì việc vận dụng những bài học đó một cách khôn khéo,
mềm dẻo, sáng tạo, gắn với những nhân tố mới, xuất phát từ điều kiện,
hoàn cảnh mới cụ thể, phù hợp với lợi ích và đặc thù của nước mình để
phát triển đất nước, tham gia hội nhập quốc tế là một nghệ thuật lớn.
Chúng ta chủ trương làm bạn với tất cả các nước, chứ không còn đứng
trên một trận tuyến của một thế giới chia cắt như trước. Trong tình hình
đó, công tác đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng không tránh khỏi những
vấn đề phức tạp. Trên một số vấn đề quốc tế, xuất phát từ các lợi ích
khác nhau nên các bên thường có quan điểm khác nhau. Trí tuệ của
ngoại giao Việt Nam sẽ vận dụng và phát huy bài học về quan điểm độc
lập tự chủ trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao để xử lý các
vấn đề quốc tế phù hợp với lợi ích của đất nước.