Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Cuộc vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)_4 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.02 KB, 12 trang )

Cuộc vận động cách mạng tháng
Tám (1939 - 1945)

Song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta cũng đề ra
chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp
phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ủng hộ Liên ban Xô
viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu
hiệu “Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc
“bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống
phát xít Nhật.

Với tinh thần trên, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên
giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên
hiệp với các lực lượng cách mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm
tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài.

Ngày 27-8-1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô
cớ bắt gaim 13 tháng, sau mới trả tự do cho Người.

Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong
thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não
của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an
toàn ở Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh),
Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km,
sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc
Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng
chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi
phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng.
Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng
quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản
của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô.



Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle
vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh
mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bứơc vào giai đoạn phát triển mới.
Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta
phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La
(Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và
xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội
nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát
xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi
cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải
đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng
phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng
phản công Trục bên Viễn Đông.

Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã
của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ
thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước” [7;279]

Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận
định:

1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ
thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những
cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi

xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.

2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia
tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách
mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính
cách toàn dân tộc.

3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm
những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều
cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân
Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới
kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc
tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]

Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc
“chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong
giai đoạn hiện tại”.

Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện
cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các
tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du
kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.

Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật –
Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện
tập dượt họ.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực
lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.


Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các
đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành
thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy,
trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô
tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ
thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở
Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì…

Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay,
nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt
Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.

Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở
chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái
Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong
quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội
nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập
trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi
Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.

Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập
thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn
luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà
Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung
phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn
(Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền
với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn.

Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt

Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”.

Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.

Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua
vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.

Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ
Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng
khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực
lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung
ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và
kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.

Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát
động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị
nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã
quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa
phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ
thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục" [ 10; 129]

Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua,
nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn
chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong
trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ
tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị
tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới
có thế đấy manh phong trào tiến lên.[10;130]

Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên

truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị
trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động
nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi
nghĩa sắp tới.

Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra
thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân trong khu rừng
Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc
châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân
giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà
Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944.

Song song với công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng
cũng tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa tư
tưởng, nhằm chống lại văn hóa, tư tưởng phản động của Nhật – Pháp
và tay sai, không để ảnh hưởng đến quần chúng. Đồng thời Đảng tuyên
truyền, phổ biến văn hóa, tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng.

Nhiều tờ báo của Đảng và Việt Minh lần lượt ra đời: Giải phóng, Cờ giải
phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Chặt
xiềng, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập…Ngay trong
một số nhà tù đế quốc, các chiến sĩ cộng sản cũng ra báo như Suối reo
(Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ chu), Dòng sông cong
(Bá vân).

Việt Minh còn cử cán bộ hoạt động công khai, nữa công khai trong lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng để tổ chức, đoàn kết, hướng dẫn trí thức, văn
nghệ sĩ, thanh niên, hướng họ tham gia vào sự nghiệp giái phóng dân
tộc.


Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Đề cương vạch
rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa nô dịch ngu dân của
Pháp – Nhật, nêu lên tầm quan trọng của văn hóa cách mạng. Văn hóa
mới Việt Nam mang tính chấtdân tộc, dân chủ, xây dựng trên 3 nguyên
tắc cơ bản, khoa học, dân tộc và đại chúng.

Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời và tham gia mặt trận Việt Minh.
Đảng còn vận động một số tư sản, trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập
Đảng dân chủ Việt Nam.

Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6 – 1944 và đã gia nhập Việt Minh.

Đảng Dân chủ Việt Nam và hội văn hóa cứu quốc đã tích cực hoạt động
góp phần mở rộng khối đại doàn kết dân tộc, đóng góp vào công cuộc
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
4. Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945

4.1. Cao trào kháng Nhật cứu nước (9 – 3 – 1945 đến giữa tháng 8 –
1945)

4.1.1 Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng mở rộng (9 -3 – 1945)

Từ cuối năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân
Liên Xô đánh đuổi quân phát xít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình, giải
phóng nhiều nước Trung, Đông Âu và trên đường tiến đến Béclin, hang
ổ cuối cùng của bọn phát xít Hitle.

Ở Tây Âu, ngày 6 – 6 – 1944, quân Anh, Mỹ ở mặt trận thứ hai, đổ quân

lên nước Pháp và tiến lên miền Tây nước Đức.

Ở châu Á – Thái Bình Dương quân đồng minh Anh, Mỹ, Trung Quốc giao
chiến kịch liệt với quân Nhật ở Trung Quốc, Miến Điện, Ma-lai-xia, In-
đô-nê-xia, Phi-lip-pin và trên biển Thái Bình Dương. Đường liên lạc, vận
chuyển hậu cần, phương tiện chiến tranh bằng đường biển của quân
Nhật bị đồng minh khống chế. Không quân đồng minh ném bom vào
các thành phố, các vị trí quân Nhật chiếm đóng trên đất Đông Dương.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Châu Á phát triển mạnh.
Quân Nhật lâm vào tình thế khó khăn, nhung vẫn cố sức kéo dài cuộc
chiến, hi vọng đảo ngược tình thế.

Ở Đông Dương bọn quân Pháp theo phái Đờ - Gôn do viên tướng về
hưu Móoc-đăng (Mordant) cầm đầu, cũng ráo riết hoạt động, mưu đồ
chiếm lại Đông Dương.

Quân Nhật biết rõ âm mưu và hành động của bọn thực dân Pháp nhưng
chưa dám truất ngay quyền của Pháp ở Đông Dương vì biết rằng quân
Pháp sẽ chống trả quyết liệt. Nhưng nếu xung đột xãy ra lúc này sẽ bất
lợi cho chúng. Vì thế cả Pháp và Nhật đều kìm nén mâu thuẫn, tiếp tục
hòa hoãn. Đảng ta nhận định “sự hòa hoãn” này có khác chi cái nhọt
bọc, chứa chất bên trong biết bao nhiêu vi trùng và máu mủ, chỉ còn
chờ dịp chín mõm là vỡ tung ra"[8,294] và “…cả hai quân thù của nhân
dân ta là Nhật Pháp đang đóng một tấn kịch giả dối, vô cùng nguy hiểm
cho chúng. Cả hai đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết,
quyết liệt cùng nhau”[8,294].

Ngày 9 – 3 – 1945, “cái bọc nhọt” ấy đã vỡ tung ra khi tình thế ở Thái
Bình Dương buộc” Nhật phải hạ Pháp để trừ cái họa bị Pháp đánh sau
lưng khi đồng minh đổ bộ”[ 7;364.].


19 giờ ngày 9 – 3 – 1945, đại sứ Nhật ở Sài Gòn trao tối hậu thư cho
toàn quyền Đông Dương Đơcu đòi Pháp trao tất cả quyền hành ở Đông
Dương cho Nhật. Thư yêu cầu Pháp phải trả lời trước 21 giờ. Nhưng
vào lúc 20 giờ 20 phút Nhật làm cuộc đảo chính lật Pháp lật Pháp trên
toàn Đông Dương. Quân Nhật tấn công quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng,
Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú Thọ, Lào Cai, Nam Định, Xavanakhẹt,
Thà Khẹt. 20 giờ 40 phút tấn công Sài Gòn. Ở một vài nơi quân Pháp
kháng cự yếu ớt rồi bị tiêu diệt hoặc đầu hàng.

×