Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

MÔ MÁU VÀ BẠCH HUYẾT ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.43 KB, 29 trang )





MÔ MÁU VÀ BẠCH HUYẾT

I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG:
 Máu và bạch huyết là một dịch lỏng lưu thông trong các mạch máu và mạch bạch
huyết, có thể được xem như một mô liên kết đặc biệt mà chất căn bản ở thể lỏng.
 Máu và bạch huyết đều có nguồn gốc chung, được tạo ra từ những cơ quan tạo
huyết, cụ thể là những tế bào máu đầu dòng.
 Máu có màu đỏ vì hồng cầu có chứa huyết cầu tố (hemoglobin), còn bạch huyết
không có huyết cầu tố.
 Máu và bạch huyết liên quan chặt chẽ với nhau về cấu tạo và chức năng, luôn có
sự trao đổi tế bào và các chất trong huyết tương và bạch huyết tương. Lymphô bào từ
máu có thể chuyển sang tuần hoàn bạch huyết và ngược lại.
 Tế bào máu có chu kỳ tái tạo sinh lý nhanh.




 Mô máu đảm nhận nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể: dinh dưỡng, hô hấp,
bảo vệ, đào thải các sản phẩm chuyển hóa, tham gia điều hòa thân nhiệt và điều hòa
hoạt động các cơ quan nhờ hệ thống hormon và enzym.
 Ở người trưởng thành, trung bình có
khoảng 76ml máu trên 1kg cân nặng. Trọng
lượng chung chiếm 7-9% thể trọng. Máu
gồm 2 phần cấu tạo là huyết tương (55-
60%) và tế bào máu (40-50%). Máu đông
lại nhanh chóng khi ra ngoài lòng mạch.
Khi trộn máu với một chất chống đông rồi cho vào 1 ống nghiệm và đem ly tâm, ta


thấy nó phân thành :
 1 lớp trong suốt nổi lên trên gọi là huyết tương.
 1 cục máu chứa các tế bào máu, tụ ở phía dưới, gồm có 2 lớp nhỏ: 1 lớp màu
đỏ chứa các hồng cầu và 1 lớp màu trắng chứa các bạch cầu và tiểu cầu.




Huyết thanh
Huyết tương
Sợi huyết
MÁU Cục
Hồng cầu máu
Tế bào máu Bạch cầu đông
Tiểu cầu
 Huyết tương là một chất lỏng màu vàng nhạt, vị mặn, hơi nhớt, pH khoảng 7.36,
chứa 90-91% nước, 7-10% các chất khác. Các chất trong huyết tương gồm có:
 Protein: albumin, globulin, fibrinogen, các enzym, acid amin, creatin,
creatinin, urê
 Lipid: acid béo tự do, triglycerit, cholesterol và các lipid khác kết hợp với
protein.




 Glucid: chủ yếu là glucosa.
 Các chất điện giải: ion Na
+
, Ca
++

, Mg
++
, Cl
-
, HCO3
-
, SO4
-
, HPO
-
,

II. TẾ BÀO MÁU
1. Hồng cầu:
Ở người
hồng cầu là những
tế bào không nhân,
gần như không có
bào quan, có dạng
hình dîa lõm 2 mặt
ở giữa. Tính chất
lõm 2 mặt giải thích vì sao trên phết máu ngoại vi, vùng trung tâm hồng cầu lại nhợt
màu hơn vùng ngoại vi. Dạng dĩa lõm 2 mặt vô cùng hữu hiệu cho sự trao đổi khí;
bởi vì nếu hồng cầu có dạng hình cầu thì diện tích bề mặt trao đổi sẽ bị giảm đi 30%.
Đường kính của hồng cầu bình thường là 7,2 - 8 micron, chiều dày vùng biên là 2 - 3
micron. Trong trạng thái bình thường, ngoài hồng cầu hình dîa, hơn 80%, ta có thể
gặp các dạng hồng cầu khác như hình cầu, hình dîa không lõm, dạng gai (hồng cầu





già). Hồng cầu dạng hình liềm là dạng đặc biệt chỉ thấy ở người bị bệnh thiếu máu
hồng cầu hình liềm.
Những hồng
cầu có kích
thước trên 8
micron gọi
là đại hồng
cầu, các
hồng có
đường kính
6 micron hay nhỏ hơn gọi là tiểu hồng cầu. Diện tích bề mặt của một hồng cầu bình
thường là 125 micron
2
, còn thể tích là 90 micron
3
. Ngày nay với sự ứng dụng các
thiết bị điện tử trong phòng huyết học, việc xác định thể tích hồng cầu ngày càng phổ
biến trong thực tế.
 Màng hồng cầu là một màng bào tương nhưng có một số đặc điểm cấu tạo khác
với các tế bào khác. Trước hết màng hồng cầu có nhiều lỗ nhỏ với đường kính
khoảng 0,5 nm. Mặt trong của màng bào tương có một lưới sợi của bộ xương tế bào.
Các sợi này không đan chéo trong bào tương của hồng cầu. Do hình thức cấu tạo đó,
nên hồng cầu có hình dáng và kích thước ổn định, nhưng có khả năng đàn hồi. Trên
bề mặt của màng có nhiều oligosaccharid kết hợp với lipid (gluco-lipid) và với




protein (glucoprotein) tạo nên những kháng nguyên nhóm máu đặc biệt (kháng

nguyên hệ ABO, Rh ).
 Bào tương hồng cầu chứa 66% nước và 34% chất khô. Hemoglobin chiếm 95%
chất khô, còn 5% là các chất khác. Mỗi hồng cầu có khoảng 350 triệu phân tử Hb (35
microgam Hb trong 1 hồng cầu). Ở người có 2 dạng Hb: HbA ở người trưởng thành,
HbF ở phôi thai. Ngay sau sanh tỉ lệ HbA/HbF là 80/20 phần trăm. Lúc trưởng thành
thì tỉ lệ đó là 98/2. Hemoglobin có thể kết hợp với oxy hoặc với CO
2
để thực hiện
chức năng hô hấp: vận chuyển oxy đến các tế bào và thu CO
2
ở các tế bào để thải qua
phổi. Sau khi kết hợp với oxy, hemoglobin được gọi là oxyhemoglobin.
 Hồng cầu có đời sống khoảng 120 ngày. Mỗi ngày có khoảng 200 triệu hồng cầu
bị phá hủy. Khi bị phá hủy hemoglobin phân thành globin và nhóm Hem có chứa Fe.
2. Tiểu cầu:
Tiểu cầu là những
mảnh tế bào không nhân.
So sánh với hồng cầu, ta
thấy tiểu cầu có đường
kính từ 2 - 4 mcm.









Tiểu cầu có dạng đĩa lồi

2 mặt, nhưng khi được
hoạt hóa chúng sẽ tạo ra
nhiều chân giả trông như
các con cầu gai.









Trong tiểu cầu có 1 bộ
xương tế bào, glycogen,
ty thể, các loại hạt (H),
1 hệ thống ống đặc
(HTOÐ) vàì 1 hệ thống
kênh mở (HTKM).

Ảnh vi điện
tử cho thấy
hệ thống 5 -
10 siêu ống
của bộ
xương tế bào
chạy vòng ở
ngoại vi tiểu
cầu( mũi tên), ty thể (ty), glycogen (gly), các loại hạt khác (H), hệ thống ống đặc
(HTOÐ) vàì hệ thống kênh mở (HTKM).





 Loại hạt có số lượng nhiều nhất là các hạt alpha. Các hạt này có màng bao riêng,
bên trong chứa các chất hoạt động trong quá trình cầm máu như yếu tố tiểu cầu IV và
thrombospondin và 1 số yếu tố tăng trưởng đối với tế bào cơ trơn và nguyên bào sợi.
Một loại hạt khác có số lượng ít hơn gọi là thể đặc vì bên trong chứa 1 chất rất đặc,
tách khỏi màng bao riêng của nó. Chất đặc chứa ATP, canxi và seretonin; cũng là
những chất cần thiết cho quá trình cầm máu. Hệ thống ống đặc tạo bởi các ống nhỏ
ngắn và dẹt, bên trong chứa canxi đậm đặc rất cần thiết trong sự hoạt hóa tiểu cầu. Hệ
thống này có nguồn gốc từ lưới nội bào hạt của tế bào nhân khổng lồ, là các tế bào
sản xuất tiểu cầu. Hệ thống kênh mở là 1 mạng lưới các túi không bào lớn thông nối
với nhau và với môi trường bên ngoài. Ðây là 1 nguồn dự trữ màng cho phép thực
hiện nhanh chóng các trao đổi giữa tiểu cầu và môi trường xung quanh.
 Tiểu cầu giữ vai trò chính trong quá trình cầm máu và đông máu bước đầu, để
hạn chế sự chảy máu ra ngoài lòng mạch. Lúc bình thường, các tiểu cầu có dạng đĩa
lồi 2 mặt và không bị kết dính vào nhau hay vào lòng mạch. Khi lớp nội mô mạch
máu bị tổn thương sẽ để lộ ra màng đáy và mô liên kết bên dưới, tiểu cầu sẽ dược
hoạt hóa và bị kéo về phía tổn thương. Ngay tức khắc, tiểu cầu chuyển từ dạng bình
thường sang dạng cầu gai đến bám lên vị trí tổn thương đồng thời giải phóng ra ngoài
các chất chứa trong các hạt và thể đặc thông qua hệ thống kênh mở. Các chất này sẽ
lôi kéo thêm các tiểu cầu khác đưa đến một sự kết tụ tiểu cầu. Sự kết tụ tiểu cầu tạo
thành 1 nút tiểu cầu còn gọi là cục huyết khối trắng, giúp bịt kín tổn thương và làm
ngừng sự chảy máu.




 Tiểu cầu đã hoạt hóa còn giải phóng các yếu tố xúc tác phản ứng chuyển

fibrinogen hòa tan trong huyết tương thành các sợi fibrin không tan. Các sợi này kết
thành 1 mạng lưới phủ lên cục huyết khối trắng làm nó thêm vững chắc. Khi có nhiều
hồng cầu bị kẹt vào trong các mắt lưới, cục huyết khối trắng biến thành cục huyết
khối đỏ.
 Như vậy tiểu cầu là những mảnh tế bào không nhân, có chức năng cầm máu. Có
thể tóm tắt chức năng này như sau:
1. Khi có tổn thương nội mô, tiểu cầu được hoạt hóa và kết dính vào mô liên
kết bên dưới tổn thương
2. Tiểu cầu hoạt hóa giải phóng các chất chứa bên trong các hạt
3. Các chất này gây ra kết tụ tiểu cầu tạo thành cục huyết khối trắng
4. Cục huyết khối trắng biến thành huyết khối đỏ khi có các hồng cầu mắc kẹt
vào trong mạng lưới fibrin.
3. Bạch cầu:
 Bạch cầu, còn gọi là tế bào máu trắng, là những tế bào di động mạnh, có trong
dòng máu, bạch huyết cũng như trong mô liên kết. Chức năng quan trọng nhất của




bạch cầu là bảo vệ cơ thể bằng hiện tượng thực bào hay miễn dịch tế bào. Trong máu,
bạch cầu có dạng hình cầu; trong các mô khác, hình dạng này có thể bị biến đổi do
các chuyển động amib. Cấu tạo và số lượng bạch cầu có ý nghĩa quan trọng trong
thực tế lâm sàng. Ngoài ra trên bề mặt bạch cầu còn có hệ kháng nguyên HLA (còn
gọi là kháng nguyên ghép chính yếu), đóng vai trò chính trong việc thải hay giữ mảnh
ghép.
 Bạch cầu chia thành bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt là những
tế bào có chứa nhiều hạt trong bào tương. Nếu các hạt đó nhuộm màu acid thì gọi là
bạch cầu ưa acid (ái toan), các hạt nhuộm màu baz thì gọi là bạch cầu ưa baz (ái
kiềm), các hạt không nhuộm màu acid cũng như màu baz thì gọi là bạch cầu trung
tính. Bạch cầu hạt còn có thể gọi là bạch cầu nhân đa hình (polymorphonuclear

leucocyte). Theo thói quen, danh từ bạch cầu đa nhân vẫn còn được nhiều người
dùng.
 Bạch cầu không hạt gồm có lymphô bào và mono bào. Tuy nhiên, dưới kính hiển
vi điện tử ta dễ dàng phát hiện trong bào tương của lymphô bào cũng như mono bào
đều có một ít hạt kín đáo. Bạch cầu có những đặc tính sau đây:
- Tính xuyên mạch.
- Tính vận động chủ động.




- Tính hóa ứng động.
- Tính thực bào.
- Tính chế tiết.

a. Bạch cầu trung tính:
Bạch cầu trung tính có dạng
hình cầu, kích thước 7-9
micron trong giọt máu tươi,
10-12 micron trên tiêu bản
kính nhuộm. Trong bào
tương chứa 50-200 hạt nhỏ
mịn nhuộm màu tím-hồng
nhạt. Vùng ngoại vi của tế bào ít hạt mà có nhiều siêu sợi giúp tế bào di động amip.
Có 2 loại hạt, hạt ưa azur và hạt đặc hiệu. Hạt ưa azur ít hơn nhưng lớn hơn (0,4
micron), đậm đặc hơn so với hạt đặc hiệu.





 Các hạt ưa azur được coi là lysosom của bạch cầu trung tính, chứa nhiều enzym
thủy phân, peroxydase với một số protein kiềm. Các hạt này có tác dụng diệt vi
khuẩn.
 Các hạt đặc hiệu chứa ít chất hơn. Trong các hạt này có collagenase, lactoferrin
(một loại protein liên kết với Fe). Do đó, bạch cầu trung tính, đóng vai trò chìa khóa
trong phản ứng viêm cấp tính. Nhân của bạch cầu trung tính có nhiều dạng, 60-70%
bạch cầu trung tính có nhân chia 2-3 thùy, một số ít (3-5%) có dạng những bạch cầu
trung tính non, có nhân hình hạt đậu. Trong thực tế người ta có thể tính chỉ số phân
thùy (công thức Arneth) để xem xét trạng thái cơ thể. Bạch cầu trung tính của giới nữ
có thể phân biệt được với bạch cầu nam nhờ sự hiện diện của thể dùi trống đặc biệt.

Bạch cầu đa
nhân trung
tính đóng
vai trò chính trong các phản ứng viêm cấp tính do vi khuẩn gây ra. Tại ổ viêm, các
mạch máu giãn nở, bạch cầu đa nhân trung tính sẽ kết dính vào vách mạch máu gọi là
hiện tượng tụ vách (1); rồi bằng chuyển động amibe, nó chui qua giữa các tế bào nội
mô, gọi là hiện tượng xuyên mạch (2 và 3) để đi vào mô liên kết gọi là hiện tượng
thấm nhập bạch cầu (4).




Ðể tiêu diệt
các vi
khuẩn, bạch
cầu đa nhân
trung tính
thò ra các
chân giả bao lấy chúng, tạo thành túi thực bào và đưa vào trong bào tương. Các hạt

ưa azur và hạt đặc hiệu tiến tới hòa nhập với túi thực bào, trút vào đó các enzym tiêu
hủy vi khuẩn. Hiện tượng này làm cạn kiệt nhanh chóng các hạt trong bào tương, làm
bạch cầu bị chết do nó không thể tổng hợp thêm được các hạt mới. Bạch cầu chết sẽ
được các đại thực bào tiêu hủy.
 Như vậy bạch cầu đa nhân trung tính là loại bạch cầu chiếm tỉ lệ cao nhất. Nhân
có nhiều thùy, bào tương chứa nhiều hạt nhỏ mịn gồm các hạt azur và hạt đặc hiệu.
Thực hiện chức năng thực bào vi khuẩn ở ngoài mô máu.
b. Bạch cầu ưa acid:
Bạch cầu ưa acid là
những tế bào hình cầu,
kích thước 9-10 micron
trong giọt máu tươi, 10-




14 micron trong tiêu bản máu dàn, bào tương chứa nhiều hạt ưa acid, nhuộm màu đỏ
tía. Đó là những hạt đặc hiệu có kích thước 0,5-1,5 micron có màng bao bọc. Trong
hạt có một chất nền vô định hình và những tinh thể tạo từ protein kiềm. Các hạt này
rất giàu peroxydase và nhiều loại enzym thủy phân giống các hạt ưa azur của bạch
cầu trung tính, do đó chúng được xem như lysosom của bạch cầu ưa acid. Loại hạt
thứ 2 có kích thước nhỏ hơn (0,1-0,5), không có cấu trúc tinh thể, bên trong hạt chứa
nhiều phosphatase và arylsulfatase.
 Bào tương ít có bào quan. Cũng như bạch cầu trung tính, trên bề mặt của bạch
cầu ưa acid có các thụ thể Fe và C
3
. Theo cấu tạo của nhân, bạch cầu ưa acid được
phân thành bạch cầu phân thùy (thường 2 thùy), bạch cầu hình gậy và bạch cầu trẻ.
 Bạch cầu ưa acid có khả năng thực bào thấp, do đó nó ít có vai trò diệt khuẩn
bằng thực bào. Chức năng chính của chúng là phản ứng dị ứng, tiêu diệt ký sinh

trùng.
c. Bạch cầu ưa baz:
Có dạng hình
cầu với kích
thước 9 micron
trong giọt máu
tươi và 10-12




micron trong tiêu bản máu đàn. Bào tương của chúng chứa những hạt ưa baz (ái
kiềm) và dị sắc, kích thước từ 0,5-1,2 micron rất giống các hạt của tế bào Mast
(masto bào). Các hạt ái kiềm cũng có màng bao riêng, chứa histamin, protêaza, 1 yếu
tố hóa ứng động đối với bạch cầu đa nhân ái toan và heparin. Histamin là 1 chất có
tác dụng gây giãn mạch, làm tăng tính thấm thành mạch và kích thích sự co thắt cơ
trơn.Khả năng thực bào của bạch cầu ưa baz không đáng kể.
 Nhân bạch cầu ưa baz ít
phân thùy .
Trong mô liên kết nhất là
các vùng xung quanh mạch
máu, có 1 loại tế bào khác
gọi là tế bào Mast. Tế bào
này có đường kính hơn 20 mcm, nhân tròn, bào tương cũng chứa nhiều hạt ái kiềm
lớn tương tự bạch cầu đa nhân ái kiềm. Tế bào mast có nguồn gốc từ các tế bào gốc
trong tủy xương, các tế bào này đi vào máu rồi vào mô liên kết để biệt hóa thành tế
bào mast.
Tất cả các tế bào chứa
hạt ái kiềm đều có
mang các thụ thể bề

mặt đối với globulin




miễn dịch E, gọi tắt là IgE (immunoglobulin E). Trong lần tiếp xúc thứ nhất với
kháng nguyên, các lymphô bào sản xuất IgE tương ứng gắn lên thụ thể bề mặt của tế
bào chứa hạt ái kiềm. Khi có tiếp xúc lần thứ hai với kháng nguyên, kháng nguyên sẽ
gắn lên IgE đã có sẵn trên bề mặt các tế bào chứa hạt ái kiềm. Sự gắn kết làm tế bào
được hoạt hóa và giải phóng ra ngoài các chất bên trong hạt ái kiềm. Các chất này tác
động gây ra các biểu hiện lâm sàng của phản ứng dị ứng.
d. Lympho bào: là những tế bào hình cầu đơn nhân, bào tương không có hạt.
Có hai loại lympho bào: lympho bào nhỏ có kích thước 6-9 micron, lympho bào lớn
có kích thước 9-15 micron. Cho đến nay việc phân biệt chức năng của hai loại
lympho bào này vẫn chưa rõ ràng. Tuy vậy, sự phân biệt chúng có ý nghĩa nhất định
trong chẩn đoán. Chẳng hạn sự tăng lympho bào lớn có thể gặp trong nhiễm virus cấp
hoặc trong tình trạng thiếu hụt miễn dịch.
 Lympho bào thuộc loại bạch cầu không hạt, nhưng dưới kính hiển vi điện tử có
thể phát hiện những hạt mịn giống các hạt ưa azur (có giá trị như các lysosom).
 Lympho bào nhỏ
có một nhân hình cầu
hoặc hơi lõm, nhuộm
màu baz đậm, chiếm
phần lớn thể tích của




tế bào. Phần bào tương còn lại rất mảnh, nhuộm màu baz, bào quan ít.
 Lympho bào được coi là những tế bào ít biệt hóa. Sau khi tiếp xúc với kháng

nguyên chúng sẽ biệt hóa thành các tế bào đáp ứng miễn dịch .
 Lympho bào
lớn có nhân khá
lớn, hình cầu hoặc
hơi lõm ở một phía,
khá giống mono
bào. Dấu hiệu phân
biệt là: lympho bào
lớn có kích thước nhỏ hơn, bào tương ít hơn, nhân ít lõm hơn so với mono bào.
 Lympho bào nhỏ có hai loại: Lympho bào T và lympho bào B (gọi tắt là tế bào T
và tế bào B). Tế bào T còn gọi là tế bào phụ thuộc tuyến ức (thymus), trên bề mặt có
một ít nhánh bào tương ngắn. Tế bào B là tế bào không phụ thuộc tuyến ức, xuất
phát từ tủy xương. Bề mặt của tế bào B có nhiều vi nhung mao.
 Một số điểm khác biệt giữa tế bào T và B được nêu lên trong bảng sau:

Tế bào B Tế bào T




Yếu tố quyết định bề mặt:

- Immunoglobulin bề mặt (sIg)

không

- Thụ thể C
3



không
/có
- Thụ thể Fc

không
/có
- Thụ thể hồng cầu cừu
không



- Kháng nguyên Thy 1 (chuột)
không



- Kháng nguyên T (OKT) (người)
không



Đáp ứng phân bào:
Lipopolysacharid vi khuẩn

không

- Concanarvalin A
không




- PHA
/
không






 Ngoài hai loại tế bào T và B còn có loại nguyên bào được gọi là tế bào không
(null cell), chúng không có đặc điểm của T lẫn B.
 Lymphô bào là những tế bào trung tâm trong đáp ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể.
Tế bào T chịu trách nhiệm miễn dịch tế bào. Còn tế bào B chịu trách nhiệm miễn
dịch dịch thể.
e. Mono bào:

Mono bào là những tế
bào hình cầu, kích
thước 12-20 micron.
Nhân hình bầu dục, cầu,
nhưng thường gặp nhất
là dạng hạt đậu, đôi khi bị xoắn vặn. Chất nhiễm sắc ít đậm đặc, nhân sáng màu hơn
các loại bạch cầu khác. Có hạt nhân nhưng khó thấy trong tiêu bản máu đàn. Bào
tương khá phong phú, nhuộm màu baz. Nghiên cứu kỹ có thể phát hiện những hạt ưa
azur, còn hạt đặc hiệu không bao giờ thấy ở mono bào, bào quan ít phong phú.





 Mono bào là nguồn gốc tạo đại thực bào. Trong dòng máu, mono bào cũng có
khả năng thực bào vi khuẩn, virus và phức hợp kháng nguyên kháng thể, nhưng hoạt
tính thực bào của chúng yếu hơn đại thực bào (ĐTB).
 Mono bào ĐTB (trong mô liên kết, mô tạo huyết, mô thần kinh, tế bào
Kupffer, ĐTB phế nang, màng phổi, ổ khớp ).
 Ngoài ra, mono bào còn có thể hợp nhất lại để tạo tế bào khổng lồ trong lao hay
hủy cốt bào.
f. Một số chỉ số cơ bản về máu:
Tỷ trọng toàn phần: 1,050-1,060
Protein: 82,73 g/l (albumin 51,28 g/l, globulin 31,45 g/l)
Lipid: 5-6 g/l.
Glucid: 0,8-1,2 g/l.
Hồng cầu: 4,2 triệu-4,8 triệu (nam); 3,8 triệu-4,2 triệu (nữ).
Hemoglobin: 10-16 g/l.




Hematocrite: 0,40-0,47.
Số lượng tiểu cầu: 250.000-300.000/mm
3
.

Công thức bạch cầu: 6000-8000/mm
3
(nam 7000, nữ 6200).
Bạch cầu trung tính: 65-70%.
Bạch cầu ưa acid: 7-9%.
Bạch cầu ưa baz: 0-5%.
Lymphô bào: 23-25%.

Mono bào: 3-5%.
III. BẠCH HUYẾT:
Bạch huyết là một dịch lỏng màu vàng chảy trong các bạch huyết quản. Bạch
huyết gồm có: bạch huyết tương và bạch huyết cầu. Bạch huyết tương có thành phần
hóa học gần giống với huyếút tương, nhưng tỉ lệ protein thấp hơn, albumin có hàm




lượng vượt trội globulin. Trong bạch huyết tương còn có chứa nhiều enzym đường
phân, diastase, lipase , nhiều lipid, glucid đơn và các chất có gắn canci, sắt và các
chất khoáng khác.
Lymphô bào chiếm 98% tế bào trong bạch huyết, ngoài ra còn có mono bào,
một số bạch cầu hạt. Bạch huyết tương được hình thành tại các mao mạch bạch huyết,
do hiện tượng ngấm dịch mô dưới áp lực thủy tĩnh và thẩm thấu.
Thành phần bạch huyết thay đổi thường xuyên, phụ thuộc trạng thái cơ thể, giờ
trong ngày, vị trí các mạch bạch huyết Bạch huyết có thể chia thành: bạch huyết
ngoại vi (trước các hạch), bạch huyết trung gian (sau khi đi qua các hạch) và bạch
huyết trung tâm (ở ống ngực và ống bạch huyết phải).
IV. SỰ TẠO HUYẾT:
Tế bào máu là những tế bào biệt hóa cao, được hình thành trong quá trình tạo
huyết. Có 2 giai đoạn tạo huyết: tạo huyết phôi thai đưa đến sự hình thành mô máu và
tạo huyết sau sanh giúp tái tạo sinh lý mô máu.
1. Tạo huyết phôi thai:
a. Tạo huyết ở thành túi noãn hoàng: ở người, quá trình tạo huyết đầu tiên
xảy ra ở thành túi noãn hoàng, vào tuần lễ thứ 3. Các tế bào trung mô ở túi noãn





hoàng, tập trung thành đám, mất nhánh nối, đó là những tiểu đảo máu (tiểu đảo
Wolff-Pander). Những tế bào ngoại vi của tiểu đảo máu biệt hóa thành tế bào dẹt như
tế bào nội mô, các tế bào còn lại sẽ sinh sản và biệt hóa thành những tế bào máu
nguyên thủy.
Bên trong phôi cũng xuất hiện những tiểu đảo máu như vậy. Tế bào máu
nguyên thủy lớn, ưa baz, nhân hình cầu, có hạt nhân. Các tế bào này phân chia và biệt
hóa để tạo thành nguyên hồng cầu nguyên thủy có kích thước lớn nên còn gọi là
nguyên đại hồng cầu. Khi trong bào tương xuất hiện hemoglobin thì nguyên đại hồng
cầu trở thành nguyên hồng cầu ưa nhiều màu, rồi nguyên hồng cầu ưa acid, trong
một số nguyên hồng cầu nhân bị thóai biến và bị tống ra ngoài. Do đó, vừa có loại
hồng cầu có nhân, vừa có loại hồng cầu không nhân. Các hồng cầu này có kích thước
lớn hơn hồng cầu bình thường và được gọi là hồng cầu nguyên phát. Bên cạnh dòng
nguyên đại hồng cầu còn có dòng nguyên hồng cầu tạo nên hồng cầu thứ phát. Đồng
thời với quá trình tạo hồng cầu nguyên phát và thứ phát, trong mạch còn có quá trình
tạo bạch cầu trung tính và bạch cầu ưa acid ngoài mạch.
Một số tế bào máu nguyên thủy vẫn tồn tại ở dạng không biệt hóa, những tế
bào này sẽ di chuyển vào các cơ quan trong phôi, ở đó chúng tiếp tục quá trình tạo
máu hoặc tạo mô liên kết.
b. Tạo huyết ở gan: ở người, gan bắt đầu hình thành vào tuần thứ 3-4, đến
tuần thứ 5 gan trở thành trung tâm tạo huyết. Tế bào máu đầu dòng di chuyển từ túi




noãn hoàng đến gan phân chia mạnh và biệt hóa thành hồng cầu thứ phát. Bên cạnh
sự tạo hồng cầu, ở gan phôi thai còn tạo ra những bạch cầu trung tính, ưa acid, tế bào
nhân khổng lồ. Toàn bộ quá trình tạo huyết ở gan đều xảy ra bên ngoài mạch, dọc
theo các mao mạch trong tiểu thùy gan.
c. Tạo huyết ở lách: lách bắt đầu hình thành vào cuối tuần thứ 4. Các tế bào
máu đầu dòng từ túi noãn hoàng hoặc từ gan di chuyển đến lách và biến lách trở

thành cơ quan tạo huyết toàn năng (tạo hồng cầu, bạch cầu, tế bào nhân khổng lồ).
Vào tháng thứ 5, sự tạo hồng cầu và bạch cầu trong lách đạt mức tối đa, sau thời gian
đó, trong lách bắt đầu tạo lymphô bào ngày càng nhiều.
d. Tạo huyết trong tủy xương: vào tháng thứ 2, tủy xương bắt đầu hình thành.
Các nguyên hồng cầu và nguyên tủy bào xuất hiện trong tủy xương vào tuần thứ 12 và
biến tủy xương thành cơ quan tạo huyết toàn năng. Sự tạo huyết trong tủy xương
được duy trì trong suốt đời. Tủy xương cũng là nơi cung cấp tế bào đầu dòng cho
thymus và các cơ quan tạo huyết ngoại vi khác.
2. Tạo huyết sau sanh:
Quá trình tạo huyết sau sanh xảy ra trong các cơ quan đặc biệt gọi là cơ quan
tạo huyết (xem “Các cơ quan tạo huyết”): tủy xương và các cơ quan lympho. Tủy tạo
huyết chứa mô tủy là nơi tạo ra hồng cầu, bạch cầu hạt, tiểu cầu, mono bào và

×