Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

BẦY NGƯỜI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ XUẤT HIỆN CHẾ ÐỘ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 5 trang )

BẦY NGƯỜI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ XUẤT
HIỆN CHẾ ÐỘ THỊ TỘC

1.Bầy người nguyên thủy ở thời đại đồ đa cũ sơ kỳ

Việc tìm được những di cốt hóa thạch của người Pithécanthropus cũng
gọi là người vượn Ja-va phát triển cao hơn loài vượn Phương Nam là
một thành tựu lớn của nền khoa học cuối thế kỷ XIX. Người vượn Ja-va,
được coi là người nguyên thủy cổ nhất mà người ta được biết, là do
một bác sĩ người Hà Lan tên là (E.Dubois) phát hiện, trên đảo Ja-va
(Inđonesia) vào những năm 1891- 1893.

Giống người vượn trung gian kế tiếp người Pithécanthropus là người
Sinanthropus cũng gọi là người vượn Trung Quốc hay người vượn Bắc
Kinh do nhà khảo cổ học người Trung Quốc Bùi Văn Trung phát hiện từ
năm 1921 ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây nam Bắc Kinh.


Người Heiđelberg được phát hiện năm 1907 ở vùng Heiđelberg (Tây
Ðức) cũng là một giống người vượn gần gũi với người Bắc Kinh và là
một trong những giống người xưa nhất sống ở lục địa Châu Âu.

Ở thời kỳ bầy người nguyên thủy, công cụ lao động tiêu biểu là những
hòn đá cuội được ghè đẽo qua loa, hình dáng rất thô kệch, những mảnh
tước tách từ hạch đá, những chiếc rìu tay hình bầu dục hoặc hình hạnh
nhân. Kỹ thuật chế tác công cụ rất thô sơ. Năng suất lao động rất thấp
kém. Nạn đói thường xuyên đe dọa.

2. Sự xuất hiện người kiểu hiện đại và sự hình thành xã hội thị tộc
mẫu hệ ở thời đại đồ đá cũ hậu kỳ


Thời kỳ bầy người nguyên thuỷ tương đương với thời đại đồ đá cũ sơ
kỳ, thời sinh sống của các giống người vượn Heiđelberg, Sinanthropus
Néanđerthaal. Bước sang thời đại đồ đá cũ hậu kỳ thì có thể nói quá
trình biến hóa từ vượn đến người đã kết thúc. Lúc bấy giờ đã xuất hiện
người kiểu hiện đại-cũng gọi là người khôn ngoan hay người homo-
sapien - hoàn tòan giống với người ở thời đại chúng tavề cấu tạo cơ thể
củng như về hình dáng bên ngoài.

Thời kỳ xuất hiện người kiểu hiện đại cũng là thời kỳ bắt đầu hình thành
các chủng tộc do những điều kiện thiên nhiên của cuộc sống của con
người trong thời đại nguyên thuỷ và do sự cư trú phân tán của họ trên
trái đất tạo nên.


Qua sự nghiên cưú của các nhà nhân loại học ,người ta phân biệt ba
chủng tộc lớn:

Ðại chủng tộc Australo-Negoit hay đại chủng Xích đạo ,ví như những
người da đen châu Phi ,những người thổ dân châu Ðại dương

Ðại chủng tộc Ơrôpêoit hay đại chủng Âu-Á , ví như các dân tộc ở châu
Âu, Bắc phi, Tiền Á, Bắc Ấn

Ðại chủng tộc Mongoloit hay đại chủng Á-Mỹ, ví như các dân tộc ở
Trung Á, Bắc Á, Ðông Á và Nam Á,thổ dân châu Mỹ người In-đi-an.

Sau hậu ky thời đại đồ đá cũ, loài người đã tiến thêm một bước dài
hơn. Những di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ này chứng tỏ một trạng
thái phát triển mạnh mẽ về mọi mặt: kỹ thuật sản xuất, sinh hoạt kinh
tế, tổ chức xã hội và hình thái ý thức.


Lúc này do yêu cầu phát triển của sức sản xuất, bầy người nguyên thủy
với mối quan hệ lỏng lẻo, không bền vững cuả nó được thay thế bằng
tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, ổn định hơn: tổ chức công xã thị tộc ra đời.
Công xã thị tộc là một tập đoàn lớn hơn, đông hơn bầy người nguyên
thủy, có thể gồm vài chục đến vài trăm người, sống thành từng gia
đình, gồm lớp cha mẹ và con cái, anh chị em ruột thịt. Nhiều thị tộc có
quan hệ dòng máu xa gần hợp thành một bộ lạc.


×