GDP QUA CÁC NĂM
Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo
tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là hai trong số năm thành tự
mà Việt Nam đạt được qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006).
Theo ông Trần Đức Khiển, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong 20 năm qua, nét nổi
bật của Việt Nam là từ một nước trì trệ, tăng trưởng thấp, tích luỹ phần lớn nhờ vào vay
mượn bên ngoài, đến nay đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Việt Nam đã tạo được khả năng tích luỹ để đầu tư cho phát triển và cải thiện đời sống của
người dân. Tổng tích luỹ tăng từ 9,5 – 11,3%/năm tuỳ giai đoạn. Nhưng cơ bản, Việt
Nam đã đổi mới được cơ chế quản lý, nhờ đổi mới mà Việt Nam từng bước xây dựng
được vai trò của mình trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1995, lần đầu tiên, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để
chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải
phóng sức sản xuất.
1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước
ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.
Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên,
giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
7%/năm.
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân
mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt
838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640
USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực,
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ
2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ
nhất về hạt tiêu.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm
2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả
kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
1
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 -
2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng
khoảng 3,89%/năm.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%, năm 2005
lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác được khoảng gần
20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công
nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường
lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng
15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản
xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến
bộ, hiệu quả.
2
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% trong
tổng số lao động xã hội, năm 2000 còn 56,8%.
Trong khi đó, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% năm
2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng tương ứng từ 19,7%
lên 25,3%; lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn
vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Số doanh
nghiệp Nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá đã giảm từ 12.084 doanh nghiệp năm
1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và 670 công ty cổ phần do Nhà
nước chi phối trên 51% vốn điều lệ năm 2005. Qua đổi mới, doanh nghiệp Nhà nước năm
2005 đóng góp 38,5% GDP và khoảng 50% tổng ngân sách Nhà nước.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2005 chiếm
46% GDP. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng
có hiệu quả, năm 2005, kinh tế hợp tác đóng góp khoảng 7% GDP.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng
Trong 20 năm qua, công tác giải quyết việc
làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm
2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động.
Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm
xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh
từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640
USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ
hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992
xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn
quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói
nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 28,9% năm 2002.
Chỉ số phát triển con người được nâng lên,
từ mức dưới trung bình (0,498) năm 1990,
tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm
2002; năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112
trên 177 nước được điều tra;
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển,
y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng
dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng
chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh;
tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999
nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
3
trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về
chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế.
Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1%
tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí); đạt trên 35%
giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao
động gián tiếp.
Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Từng bước
phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới.
Thị trường hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao
động, khoa học và công nghệ, bất động sản đang được hình thành.
Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện
cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu
ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30%
tổng chi ngân sách.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng kim ngạch
xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm.
Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với những
thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng 15,7%/năm,
bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang những
nền kinh tế lớn.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập
siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn
cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần.
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp
nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng nông, lâm
thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nh‹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ
38,8% lên 39,8%.
Đánh giá đúng những thành tựu kinh tế xã hội, nhận diện đúng những thách thức
trong 20 năm qua sẽ là những cơ sở quan trọng để ĐH X của Đảng đề ra những
quyết sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời gian tới.
Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2006 – 2010
GDP bình quân đạt 7,5 – 8%, phấn đấu đạt trên 8% (theo so sánh GDP
4
năm 2010 gấp 2,1 lần so với 2000)
GDP bình quân đầu người đến 2010: 1.050 – 1.100 USD (năm 2005 đạt
khoảng 600 USD)
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010:
-Nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15 -16%
-Công nghiệp và xây dựng: 43 – 44%
-Các ngành dịch vụ: 40 – 41%
Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước đạt khoảng 21 – 22% GDP
Tổng kim ngạch xuất khaair tăng 16%/năm
Tổng đầu tư xã hội chiếm 40%GDP (vốn trong nước chiếm 65%, vốn
bên ngoài 35%)
Tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2007
Mặc dù gặp những tác động bất lợi của kinh tế thế giới và thiên tai, dịch bệnh ở trong
nước, nhưng kinh tế-xã hội Việt Nam đã có nhiều thành tích đáng khích lệ về tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn đầu tư, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu,
thị trường chứng khoán, vị thế quốc tế, giảm nghèo ; đồng thời cũng còn một số hạn
chế, bất cập.
Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm trước đó,
đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế
5
lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người
đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín
hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát
triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới.
Cùng với tăng trưởng kinh tế cao là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Theo nhóm ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp-thủy sản vốn tăng thấp, năm nay lại gặp khó
khăn do thiên tai, dịch bệnh lớn nên tăng thấp và tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành
này tiếp tục giảm (hiện chỉ còn dưới 20%). Công nghiệp-xây dựng tiếp tục tăng hai chữ
số, cao nhất trong ba nhóm ngành, nên tỷ trọng trong GDP tiếp tục tăng (hiện đạt gần
42%), phù hợp với giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ
được mở cửa rộng hơn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
nên đã tăng cao hơn tốc độ chung, nhờ đó đã chặn được sự sút giảm trong tỷ trọng GDP
của nhóm ngành này trong thời kỳ 1995 - 2004 và cao hơn năm trước. Theo thành phần
kinh tế, kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là kinh tế tự nhiên, tăng trưởng cao hơn tốc độ
chung, nên tỷ trọng của khu vực này trong GDP đã cao lên và hiện đã đạt cao hơn khu
vực nhà nước (46% so với dưới 37%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng
cao hơn tốc độ chung, nên tỷ trọng trong GDP cũng cao lên (hiện đạt trên 17%). Khu vực
ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tổng tỷ trọng trong GDP cao
hơn, lại có tốc độ tăng cao hơn khu vực nhà nước, nên đã trở thành động lực của tăng
trưởng kinh tế chung, phù hợp với đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập.
Tăng trưởng kinh tế cao đạt được do sự tác động của cả hai yếu tố đầu vào và đầu ra.
Ở đầu vào, vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 40,6%, là tỷ lệ thuộc loại cao nhất từ
trước tới nay, cũng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (có
chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44% của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tỷ lệ góp
phần làm cho kinh tế nước này liên tục trong nhiều năm tăng trưởng hai chữ số). Đáng
lưu ý, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư
phát triển tiếp tục giảm xuống, thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà
nước tăng lên (đạt 38%); hiệu quả đầu tư của khu vực này lại cao gấp đôi khu vực kinh tế
nhà nước. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới ở cả ba nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực
tiếp đạt được sự vượt trội cả về tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung (20,3 tỉ); cả về quy
mô bình quân một dự án (trên 14 triệu USD/dự án); cả về cơ cấu đầu tư vào nhóm ngành
dịch vụ; cả về lượng vốn thực hiện (4,6 tỉ USD). Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
cuối năm 2006 (cam kết cho năm 2007) đạt mức kỷ lục (4,4 tỉ USD); cuối năm 2007
(cam kết cho năm 2008) còn đạt kỷ lục cao hơn (trên 5,4 tỉ USD). Lượng vốn giải ngân
năm nay đạt 2 tỉ USD, vừa vượt kế hoạch, vừa đạt cao nhất từ trước tới nay. Nguồn vốn
đầu tư gián tiếp năm nay ước đạt 5,6 tỉ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước.
Ở đầu ra, cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng tới gần 23%; nếu loại trừ yếu tố tăng giá bình quân năm
nay so với năm trước (8,3%), thì vẫn còn cao gấp 1,6 lần tốc độ tăng GDP (13,7% so với
8,48%). Dung lượng thị trường ước đạt gần 45 tỉ USD, với dân số đông mà hằng năm vẫn
còn tăng cao, tiêu dùng của dân cư vừa tăng về số lượng, vừa đa dạng về mẫu mã, chủng
loại, vừa cao hơn về chất lượng và tỷ lệ tiêu dùng thông qua việc mua và bán trên thị
trường tăng nhanh, vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế trong nước, vừa có tác động
"mời gọi" các nhà đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu đạt sự vượt trội cả về quy mô (48,4 tỉ
USD, bằng trên 68% so với GDP), cả về tốc độ tăng (21,5%, vượt kế hoạch, cao gấp 2,3
lần tốc độ tăng GDP).
6
Tăng trưởng kinh tế cao nên chỉ số phát triển con người (HDI) đạt được nhiều sự vượt
trội. HDI tăng lên qua các năm (1985 mới đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt
0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, khả năng năm 2007 đạt trên 0,75%).
Thứ bậc về HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ bậc
trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ
giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình quân
đầu người cao hơn Việt Nam, phù hợp với nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là
nền kinh tế thị trường theo định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Tỷ lệ nghèo đã giảm (từ 17,8% xuống còn 14,8%).
Vị trí quốc tế của Việt Nam gia tăng với việc chính thức trở thành thành viên WTO, được
bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,
Bên cạnh những thành tích trên, tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 cũng bộc lộ một số
hạn chế, bất cập. Ngoài những hạn chế, bất cập tồn tại từ những năm trước, thì năm nay
cũng nổi lên ba vấn đề lớn. Giá tiêu dùng tăng cao nhất so với 11 năm trước đó và cao
hơn tốc độ tăng GDP. Nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu.
Ách tắc và tai nạn giao thông nghiêm trọng,
Ngọc Minh
)
Năm 2009, trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới,
Việt Nam đã chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ ổn định kinh
tế vĩ mô. Kinh tế Việt Nam năm 2009 bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu
đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và thách thức. Việc đánh giá, nhìn nhận lại
kinh tế Việt Nam năm 2009 để rút ra những bài học, chỉ rõ những thách thức và giải
pháp cho năm 2010 có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách ở
Việt Nam. Thực tế, có thể tiếp cận và đánh giá một nền kinh tế từ nhiều cách. Trong
bài viết này chúng tôi đánh giá bức tranh kinh tế Việt Nam 2009 từ góc độ vĩ mô
dựa trên diễn biến tình hình kinh tế trong năm và các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản.
1.Tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2009
Gói kích thích kinh tế
Trước những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu và ngăn chặn suy
giảm kinh tế, từ đầu năm 2009, chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế. Gói kích thích
kinh tế đã triển khai được phân thành các cấu phần sau: (i) gói hỗ trợ lãi suất 4%; (ii) gói
hỗ trợ tiêu dùng bao gồm miễn thuế thu nhập cá nhân và hỗ trợ người nghèo ăn Tết; (iii)
gói hỗ trợ đầu tư bao gồm miễn, giảm, giãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh
nghiệp và cho nông dân vay vốn không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất công
nghiệp; (iv) đầu tư công bao gồm xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên và khu
chung cư cho người thu nhập thấp. Tuy chưa được đánh giá một cách sâu sắc và toàn
diện về hiệu quả của gói kích thích kinh tế, nhưng về cơ bản nó đã đạt được mục tiêu đề
ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế. Trong đó, các cấu phần có tác động mạnh nhất
là gói hỗ trợ lãi xuất 4% và chính sách miễn, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp. Các gói
này được xem như một liều thuốc “giải cứu” giúp nhiều doanh nghiệp vay được vốn để
phục hồi và duy trì sản xuất và giải quyết việc làm. Đồng thời, chúng còn góp phần quan
trọng làm cho hệ thống ngân hàng cải thiện được tính thanh khoản và duy trì khả năng trả
7
nợ của khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên, gói kích thích kinh tế vẫn
bộc lộ nhiều tồn tại và hệ lụy. Thứ nhất, làm phát sinh tình trạng không công bằng giữa
các doanh nghiệp được vay và không được vay vốn hỗ trợ lãi suất, tạo ra môi trường kinh
doanh bất bình đẳng. Thứ hai, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực
hiện chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao gây nguy cơ tái lạm phát, gây đột biến trên thị
trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản. Thứ ba, hiệu quả của gói đầu
tư công và cho nông dân vay vốn mua thiết bị máy móc còn rất hạn chế do những khó
khăn về nguồn vốn và thủ tục. Vì vậy, những thành công và hạn chế của gói kích thích
kinh tế quả thật là những vấn đề rất đáng được nghiên cứu và đánh giá để đưa ra những
chính sách phù hợp trong thời gian tới.
Tăng trưởng kinh tế
Cần khẳng định rằng dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quá trình
suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc độ tăng trưởng đến
nhanh. Hình 1 cho thấy nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau
đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt
5,8% và dự đoán quý IV sẽ đạt 6,8%.
Hình 1: Tăng trưởng GDP theo quý
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Giá
trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên 7,6% và quý III là 8,5%. So với
khu vực công nghiệp, thì khu vực dịch vụ chịu tác động ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
thế giới ở mức độ thấp hơn. Nhìn chung, khu vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá
cao, tốc độ tăng trưởng trong quý I là 5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III.
Căn cứ kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo, tốc độ tăng
trưởng giá trị khu vực dịch vụ ước thực hiện cả năm 2009 có thể đạt 6,5%. Đối với lĩnh
vực nông nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2008 đã đạt mức kỷ lục so với trước, nên
ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong năm 2009. Uớc thực hiện giá trị tăng thêm
ngành nông, lâm, thủy sản tăng khoảng 1,9%.
8
Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được ngay từ trước
khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng trưởng như vậy dự báo
GDP cả năm 2009 sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức tăng trưởng đáy trong 20 năm qua ở
mức 4,77% của năm 1999. Đây là một thành tựu kinh tế nổi bật trong năm 2009 nếu đặt
trong bối cảnh Việt Nam là một trong số ít nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt
mức tăng trưởng dương.
Đầu tư phát triển
Trong bối cảnh suy giảm kinh tế, những khó khăn trong sản xuất kinh doanh và hiệu
quả đầu tư kinh doanh giảm sút đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động đầu tư phát
triển. Trước tình hình đó, Chính phủ đã thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư, tăng
cường huy động các nguồn vốn, bao gồm việc ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách nhà
nước (NSNN) của các năm sau, bổ sung thêm nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín
dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu, tín dụng đào tạo lại cho người lao động bị mất việc
làm… Với những nỗ lực đó, nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đã đạt được những
kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2009 đạt 708,5 nghìn tỷ đồng,
bằng 42,2% GDP, tăng 16% so với năm 20081 . Trong đó, nguồn vốn đầu tư nhà nước
(gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư
theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) là 321 nghìn tỷ
đồng, tăng 43,3% so với năm 2008; nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư là 220,5
nghìn tỷ, tăng 22,5%. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy
động tích cực hơn. Tuy nhiên, trong khi các nguồn vốn đầu tư trong nước có sự gia tăng
thì nguồn vốn FDI năm 2009 lại giảm mạnh. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm
ước đạt 20 tỷ USD (so với 64 tỷ USD năm 2008), vốn thực hiện ước đạt khoảng 8 tỷ
USD (so với 11,5 tỷ USD năm 2008). Tổng vốn ODA ký kết cả năm ước đạt 5,456 tỷ
USD, giải ngân đạt khoảng 3 tỷ USD.
Tăng vốn đầu tư trong bối cảnh khó khăn kinh tế toàn cầu là một điểm sáng của kinh tế
Việt Nam năm 2009 để vượt qua tình trạng suy giảm kinh tế. Ty nhiên, những hạn chế
trong hiệu quả đầu tư đã xuất hiện từ nhiều năm nay và càng trở thành vấn đề cần giải
quyết. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ
chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%)
chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã
hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009
đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 20082. Bên cạnh đó còn xảy ra tình
trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái
phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý
dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài.
Lạm phát và giá cả
Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng hơn
một thập kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới hai con số.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với tháng
12/2008. Đây là mức tăng chỉ số giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây và là
9
mức tăng hợp lý, không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân.
Nhiều loại hàng hoá có ảnh hưởng mạnh trong rổ hàng hoá để tính CPI tăng thấp. Chỉ số
CPI lương thực tăng nhẹ trong 6 tháng đầu năm (0,59%) nhưng lại có xu hướng giảm
trong những tháng cuối năm. Như vậy, nếu như lương thực, thực phẩm luôn là đầu tàu
kéo lạm phát đi lên trong những năm 2007 và 2008 thì ở năm 2009 nhân tố này không
còn đóng vai trò chính nữa.
Hình 2: Diễn biến làm phát hàng tháng năm 2009
Duy trì tốc độ tăng lạm phát và giá cả của năm 2009 ở mức một con số là một điểm
sáng nữa trên bức tranh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa thoát khỏi
suy thoái kinh tế. Thành tựu kiềm chế lạm phát trong năm 2009 có tác động tích cực đến
ổn định kinh tế - xã hội cũng như tạo thuận lợi cho việc triển khai các chính sách kích
thích kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù xu hướng
tăng của giá tiêu dùng chưa có biểu hiện rõ rệt, nhưng một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ tác
động làm tăng nguy cơ tái lạm phát cao trở lại. Đó là tăng trưởng tín dụng đang ở mức
cao 3 do thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế; giá
của các mặt hàng nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới bắt đầu có
xu hướng tăng cao do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt giá xăng dầu. Mặt khác,
những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam năm 2008 vẫn còn. Đó là sự
thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho
các DNNN và tập đoàn mà thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng chắc chắn sẽ kích
hoạt cho lạm phát trở lại.
Tỷ giá
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định
đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2009 là tương đối
phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng và biên độ từ + 3% lên
+ 5% vào tháng 4/2009, trên thị trường tự do giá ngoại tệ nhanh chóng áp sát mức 18.300
10
đồng/đô la Mỹ và đến tháng 11 đã lên trên 19.000 đồng/đô la Mỹ.
Hình 3: Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Hình 3 cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường
ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD thương
mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có bán
thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị
trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá
hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không
ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành
tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Thu chi ngân sách
Năm 2009, các giải pháp miễn, giảm, giãn thuế kết hợp với giảm thu từ dầu thô và
giảm thu do duy giảm kinh tế đã làm cho nguồn thu ngân sách bị giảm mạnh. Uớc tính
tổng thu ngân sách cả năm đạt 390,65 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ so với mức dự toán (389,9
nghìn tỷ) và giảm 6,3% so với thực hiện năm 2008. Điểm sáng duy nhất trong hoạt động
thu ngân sách năm nay là chỉ có thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) tăng so với năm
2008 (tăng 9,8 nghìn tỷ) còn các khoản thu khác đều sụt giảm. Mặt khác, nhu cầu và áp
lực chi tăng lên cho kích thích tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Tổng chi ngân sách
ước đạt trên 533 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5% so với dự toán và 7,5% so với năm 2008. Tổng
bội chi ngân sách ước khoảng 115,9 nghìn tỷ đồng, bằng 6,9% GDP, cao hơn nhiều so
với mức 4,95% của năm 2008 và kế hoạch đề ra (4,82%). Trong bối cảnh khủng hoảng
tài chính toàn cầu, tình trạng khó khăn trong nước và áp lực phải tăng chi để phục hồi
11
kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, tăng bội chi ngân sách là điều không tránh khỏi.
Tuy nhiên, bội chi ngân sách tăng trong bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao trở lại. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các
năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng
nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.
Hình 4: Bội chi ngân sách 2005-2009
Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
Năm 2009, tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước
vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU Tổng kim ngạch
xuất khẩu năm 2009 ước đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Tình
hình xuất khẩu như vậy không đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân của
nó. Kim ngạch xuất khẩu giảm là do giá cả thế giới giảm (riêng yếu tố giảm giá trong 9
tháng đầu năm làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD) - một yếu tố ngoài tầm
kiểm soát của chúng ta; trong khi đó khối lượng hàng hoá xuất khẩu có sự tăng đáng kể
giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và xa hơn là
giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc làm và thu nhập của người lao động. Vấn đề
tồn tại lớn nhất của xuất khẩu bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều
vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế
biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi
thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt
chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu. Trong thời gian tới, xuất
khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của khủng
hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương
mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt
hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.
12
Bảng 1: Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2006-2009
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với năm
2008. Điều này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế.
Tuy nhiên, trong các tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng lên khi các biện
pháp hỗ trợ sản xuất phát huy tác dụng. Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch
nhập khẩu đều giảm sút, nhưng do tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn tốc độ
giảm kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2009 giảm xuống chỉ còn khoảng 11 tỷ
USD, chiếm 16,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán
cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc
kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao
thể hiện việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu vẫn còn chậm.
Bảo đảm an sinh xã hội
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, trong
đó có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo xây nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh doanh, cho
vay học sinh, sinh viên, mua thẻ bảo hiểm y tế. Đồng thời, chính phủ cũng triển khai
công tác hỗ trợ các hộ nghèo, hộ bị ảnh hưởng thiên tai, bị thiệt hại về gia súc, gia cầm,
vật nuôi để ổn định sản xuất và đời sống. Ngoài ra, chính phủ cũng đã tích cực triển khai
thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng
nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các
huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện; triển khai các
chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực hiện mức
khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng cường cán bộ cho
các huyện nghèo. Hoạt động chăm sóc người có công và các đối tượng chính sách tiếp
tục được duy trì và mở rộng.
Năm 2009 tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với
năm 2008, trong đó chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ đồng;
trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580 tấn gạo (riêng số gạo cứu trợ đợt
đầu khắc phục hậu quả bão số 9 là 10.300 tấn). Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay
hộ nghèo và các đối tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ước đến
cuối năm đạt 76 nghìn tỷ đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ
13
62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các
đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn
định chính trị, xã hội.đặc biệt là đối với người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2009
giảm còn khoảng 11%. Tuy nhiên, tình hình suy giảm kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Dự kiến đến cuối năm 2009, có khoảng
1,51 triệu lượt lao động được giải quyết việc làm, đạt 88,5% kế hoạch năm và bằng
93,2% so với thực hiện năm 2008. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2009 ước
đạt 7 vạn người, giảm đáng kể so với con số 8,5 vạn người của năm 2008.
GDP năm 2006 tăng 8,17%
Đó là con số mà Tổng cục Thống kê vừa công bố. Cơ cấu nền kinh tế đang chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông,
lâm, nghiệp, thuỷ sản.
Các sự kiện tiếp theo được nhắc đến là kim ngạch xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài,
cam kết ODA từ cộng đồng quốc tế đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Sau đây là 10 sự kiện kinh tế nổi bật năm 2006 do TTXVN bình chọn
1 - Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Đồng thời, Mỹ cũng đã thông qua Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường
vĩnh viễn (PRNT) với Việt Nam.
2 - Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức cao kỷ lục, xấp xỉ 40 tỷ USD, tăng 24%
so với năm 2005 và vượt 2 tỷ USD so với kế hoạch.
3 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng đột biến, đạt trên 10,2 tỷ USD, trong đó Tập
đoàn Intel (Mỹ) đầu tư 1 tỷ USD vào khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, Tập
đoàn Posco (Hàn Quốc) đầu tư 1,2 tỷ USD vào dự án thép tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
4 - Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) cam kết hỗ trợ phát triển chính thức
Kinh tế Việt Nam – Những điểm nhấn năm 2009 và bài toán năm 2010 (01/02/2010)
Năm 2009, nền kinh tế Việt Nam từng bước được ổn định và tiếp tục phát triển
với những điểm nhấn đáng chú ý sau:
I. BỐN ĐIỂM NHẤN TRONG NĂM 2009…
1.Ổn định kinh tế - xã hội chung được giữ vững, thị trường trong nước từng bước
được mở rộng
Về tổng thể, năm 2009, Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu tổng quát đề ra là ngăn
chặn suy giảm kinh tế, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối thu chi ngân sách nhà
nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế… cơ bản được bảo đảm, vốn đầu tư toàn xã hội
đạt cao, tới 42,6% GDP, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước bằng 100,2% dự toán;
Việt Nam đã vượt qua thời kỳ lạm phát cao khá tốt, hiện VND đang có độ ổn định và tin
cậy khá cao, lượng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán tăng trong phạm vi cho phép,
nợ xấu và tiền mặt trong thực tế ngày càng giảm, dự trữ ngoại tệ đủ theo tiêu chuẩn quốc
tế, mặt bằng giá cả bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội về cơ bản là không cao, thậm chí
nhiều mặt hàng đang có sự giảm giá đáng kể; lạm phát được kiềm chế với tỷ lệ lạm phát
khoảng 7%, tương đương với mức trung bình của nhiều năm trước đây; công tác an sinh
14
xã hội được chú trọng đúng mức. Dư luận thế giới cũng đánh giá cao những nỗ lực vượt
qua khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu mà chúng ta đã, đang và sẽ còn tiếp tục thu
được. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước ước đạt 5,2%, tuy thấp nhất trong vòng
nhiều năm gần đây, Việt Nam là nước đứng đầu Asean về tốc độ tăng trưởng, đồng thời
nằm trong nhóm trên 10 nước có tăng trưởng dương năm 2009… Đây là những nỗ lực
tổng hợp rất đáng ghi nhận, đặc biệt trong bối cảnh tuyệt đại đa số các nước trên thế giới
đang đối diện với những thảm cảnh suy thoái và thất nghiệp tràn lan do khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tính đến ngày 15/11/2009, so với cùng kỳ năm trước: Cả nước đã thu hoạch lúa mùa
bằng 101,2%, quy mô chăn nuôi lợn và gia cầm đều tăng, sản lượng thủy sản ước tăng
3,5%; Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,3% (trong đó khu vực ngoài Nhà nước tăng
9,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,7% cho thấy sự năng động của các khu
vực này); tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 18,5% (nếu loại trừ yếu tố
giá thì tăng 10,8%); kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 51,3 tỷ USD (giảm
11,6%), bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 24,3 tỷ USD, giảm 6,7%; khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 27 tỷ USD, giảm 15,5% - nếu không kể
dầu thô, thì kim ngạch xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ giảm 3,7% so với
cùng kỳ năm 2008.
Đặc biệt, một số mặt hàng chủ lực có lượng xuất khẩu tăng, nhưng do giá trên thị
trường thế giới hạ, nên kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó
gạo tăng 33,5% về lượng nhưng giảm 5,8% về kim ngạch; cà phê tăng 15,5% về lượng,
giảm 17,4% về kim ngạch; than đá tăng 19,8% về lượng, giảm 11,3% về kim ngạch; dầu
thô tăng 3,1% về lượng, giảm 41,7% về kim ngạch; cao su tăng 8,6% về lượng, giảm
32,4% về kim ngạch. Điểm đáng chú ý là, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ đối ngoại
của Việt Nam, năm 2009 Hoa Kỳ vừa là nhà đầu tư FDI lớn nhất, vừa là thị trường xuất
khẩu lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,3 tỷ USD, tiếp theo là thị trường EU với 7,6
tỷ USD, thị trường Asean với 7,3 tỷ USD trong 10 tháng năm 2009.
Tính chung 11 tháng đầu 2009, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 61,7 tỷ USD, giảm
17,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 39,3 tỷ USD,
giảm 20,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,4 tỷ USD, giảm 13,2%. Sự giảm
sút được ghi nhận ở hầu hết các mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong
nước, trong đó nhiều mặt hàng mặc dù lượng nhập khẩu tăng, nhưng do giá giảm nên kim
ngạch giảm, trong đó xăng dầu giảm 45,3% (lượng tăng 0,6%); sắt thép giảm 24,4 (lượng
tăng 16,3%)… Thị trường nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam dẫn đầu là Trung Quốc với
1,13 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Nhật Bản với 665 triệu
USD, giảm 7,2%; Đài Loan 247 triệu USD, tăng 3,9%; Hàn Quốc 228 triệu USD, tăng
11,6%. Nhập siêu 11 tháng năm 2009 ước tính 10,4 tỷ USD, bằng 20,3% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu và bằng 61,1% mức nhập siêu cùng kỳ năm 2008.
Khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3,4 triệu lượt người, giảm 12,3% so với cùng
kỳ năm trước. Khối lượng hàng hoá vận chuyển 11 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt
583,4 triệu tấn, tăng 4,1% và 167,8 tỷ tấn.km, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, bao
gồm: vận tải trong nước đạt 558,3 triệu tấn, tăng 5,8% và 58,6 tỷ tấn.km, tăng 5,2%; vận
tải nước ngoài đạt 25,1 triệu tấn, giảm 5,5% và 109,3 tỷ tấn.km, tăng 9,8%. Sự gia tăng
vận tải trong nước chứng tỏ sự gia tăng vai trò của thị trường trong nước trong bối cảnh
có sự sụt giảm vận tải hàng hoá và vai trò thị trường ngoài nước…
15
Tính chung 11 tháng, cả nước có 641,4 nghìn lượt hộ với 2823,6 nghìn lượt nhân khẩu
bị thiếu đói. So với cùng kỳ năm 2008, số hộ thiếu đói giảm 31% và số nhân khẩu thiếu
đói giảm 27,6%. Vừa qua, Ủy ban Tài chính Ngân sách đã nhất trí với đề nghị của Chính
phủ về việc bổ sung kinh phí 1300 tỷ đồng để tăng nguồn thực hiện chương trình tín dụng
của Nhà nước hỗ trợ các hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, tôn nền xây dựng
nhà vùng ngập lũ.
2. ODA giải ngân cao nhất trong các năm
Năm 2009, Việt Nam được đánh giá là quốc gia đối phó tốt với khủng hoảng kinh tế và
đang phục hồi nhanh chóng, sẽ sớm lấy lại đà tăng trưởng và là quốc gia đang phát triển
có mức thu nhập GDP bình quân đầu người đạt khoảng 1.200 USD. Đây là tiền đề quan
trọng để các nhà tài trợ tiếp tục đặt niềm tin vào nền kinh tế và vốn ODA cung cấp cho
Việt Nam. Trong tổng số vốn 5,914 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết tại Hội nghị nhóm
tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG - 2008), tổng lượng vốn ODA đã được ký kết
đạt 3,85 tỷ USD (tính đến hết tháng 10/2009) và dự kiến cả năm, tổng vốn ký kết sẽ đạt ở
mức 5,056 tỷ USD. Đặc biệt, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mức giải ngân vốn ODA cả
năm 2009 sẽ đạt khoảng 3 tỷ USD (trong đó vốn cho xây dựng cơ bản là 850 triệu USD),
cao nhất kể từ khi Việt Nam tiếp nhận viện trợ ODA. Nguồn vốn ODA đã được sử dụng
đúng mục đích với những chương trình, dự án quan trọng được ký kết, tập trung chủ yếu
vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị, như khoản vay hỗ trợ khắc
phục tác động của khủng hoảng trị giá 500 triệu USD; đường cao tốc Thành phố Hồ Chí
Minh - Long Thành - Dầu Giây 410,20 triệu USD; dự án thoát nước Thành phố Hà Nội
giai đoạn 2 với 299,97 triệu USD Nếu không có biến động lớn, tổng vốn ODA ký kết
cho cả thời kỳ 2006 - 2009 đạt khoảng 20 tỷ USD, tức vượt xa so với mục tiêu 12,35 -
15,75 tỷ USD là Việt Nam đã đặt ra về thu hút khoản viện trợ này. Kết thúc Hội nghị CG
- 2009, chiều ngày 4/12/2009, các nhà tài trợ quốc tế công bố mức cam kết viện trợ kỷ
lục vốn ODA dành cho Việt Nam với hơn 8 tỷ USD. Năm nay, WB trở thành nhà tài trợ
lớn nhất với mức 2,498 tỷ USD. Nhật Bản công bố mức viện trợ 1,64 tỷ USD; Trong khi
đó, EU công bố mức viện trợ hơn 1 tỷ USD; ADB dành 1,479 tỷ USD cho Việt Nam. So
với mức gần 6 tỷ USD cam kết của năm 2008, cam kết của các nhà tài trợ năm nay được
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định “thể hiện sự ủng hộ chính sách phát triển,
đường lối của Việt Nam trong đổi mới hội nhập quốc tế”.
3. Dòng kiều hối và FDI vẫn sung sức
Với khoảng 4 triệu kiều bào đang sinh sống và làm ăn ở hơn 100 nước và vùng lãnh
thổ trên toàn thế giới, trong đó có hơn 500.000 người lao động xuất khẩu, Việt Nam là
quốc gia có lượng kiều hối chuyển về hàng năm rất lớn và không ngừng tăng. Theo báo
cáo của Ngân hàng Thế giới, năm 2008 Việt Nam đứng thứ 10 trong số các nước nhận
được lượng kiều hối nhiều nhất thế giới. Theo dự báo của Bộ Tài chính, kiều hối năm
2009 có thể đạt 6,8 tỷ USD (trong đó lượng kiều hối chuyển cho thân nhân tăng, còn
lượng kiều hối chuyển về đầu tư giảm). So với 7,2 tỷ USD kiều hối năm 2008, mức giảm
kiều hối năm 2009 không lớn như dự kiến. Điều này góp phần cải thiện cán cân thanh
toán của Việt Nam trong bối cảnh kim ngạch xuất khẩu giảm. Với nhiều chính sách mới
khuyến khích kiều bào về đầu tư, mua nhà ở Việt Nam và đẩy mạnh xuất khẩu lao động,
hy vọng năm 2010 lượng kiều hối sẽ tăng mạnh trở lại cùng với đà phục hồi của nền kinh
tế thế giới.
Bất chấp sự sụt giảm dòng đầu tư chung trên toàn thế giới, tính đến 21/11/2009, Việt
Nam vẫn thu hút được 19,7 tỷ USD qua kênh FDI (tuy giảm 72% so với cùng kỳ năm
16
2008, nhưng vẫn bằng 20% so với tổng 98 tỷ FDI còn hiệu lực tính đến cuối năm 2007
mà Việt Nam thu hút được trong suốt 20 năm 1988 - 2007 ), bao gồm: Vốn đăng ký của
776 dự án được cấp phép mới đạt 14,6 tỷ USD (giảm 77,6% về vốn và giảm 47,5% về số
dự án); vốn đăng ký bổ sung của 213 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1
tỷ USD. Điểm cần lưu ý, năm 2009 tỷ lệ vốn FDI thực hiện trong 11 tháng đầu năm 2009
ước tính đạt 9 tỷ USD, chỉ giảm 10,4% so với cùng kỳ năm 2008, đây là mức giảm không
đáng kể so với tỷ lệ giảm của vốn đăng ký, chứng tỏ sự thuận lợi trong kinh doanh của
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở Việt Nam
Đặc biệt, năm 2009, lần đầu tiên xuất hiện cơ cấu các nhà đầu tư hàng đầu mới: Hoa
Kỳ đứng đầu với 4261,1 triệu USD, chiếm 29,1% tổng vốn đăng ký mới (hiện Hoa Kỳ
đứng thứ 7 trong số các nước có vốn FDI vào Việt Nam, với tổng số 485 dự án còn hiệu
lực và hơn 12,8 tỷ USD vốn đăng ký); đảo Cayman 2016,5 triệu USD, chiếm 13,8%; Sa-
moa 1700,6 triệu USD, chiếm 11,6%; Hàn Quốc 1517,7 triệu USD, chiếm 10,4% (đứng
thứ 2 với 2294 dự án còn hiệu lực và hơn 20,5 tỷ USD vốn đăng ký); Đài Loan 1417,4
triệu USD, chiếm 9,7% (đứng số 1 với 2013 dự án còn hiệu lực và 21,3 tỷ USD vốn đăng
ký); quần đảo Virgin thuộc Anh 1076,1 triệu USD, chiếm 7,3%.
Có thể nói, năm 2009, Việt Nam vẫn nhận được những cái nhìn lạc quan từ các nhà
đầu tư nước ngoài với hàng loạt doanh nghiệp lớn FDI tiếp tục khai trương và hàng trăm
nhà đầu tư mới tiếp tục đổ đến Việt Nam để tìm kiếm cơ hội trong nhiều lĩnh vực, như
đầu tư và chứng khoán, nội địa hóa nguồn nguyên liệu sữa, thị trường bán lẻ, ngành dầu
mỏ Việt Nam, viễn thông di động, ngân hàng Mới đây, Tập đoàn Kyocera MiTa (Nhật
Bản) - một trong 10 tập đoàn lớn nhất thế giới về thiết bị, máy văn phòng với doanh thu
12 tỷ USD/năm - đã chính thức vào thị trường Việt Nam thông qua việc lựa chọn HSTC
Group của Việt Nam là đối tác chính thức. Hong Leong - Tập đoàn Tài chính lớn nhất
Malaysia - cũng vừa quyết định xin đầu tư ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam
và đã chính thức ra mắt đầu tháng 10 vừa qua. Ông Lê Đình Long - Tổng giám đốc Hong
Leong Bank Việt Nam nhấn mạnh, dù kinh tế khó khăn, Hong Leong vẫn nhìn thấy tiềm
năng của thị trường Việt Nam. Ông Don Lam - Tổng giám đốc VinaCapital cho biết,
những năm tới, sẽ chứng kiến sự hứng thú mới của các nhà đầu tư có tầm vóc toàn cầu
đối với Việt Nam. Đó là tín hiệu tốt và tạo xung lực mới cho quá trình cải cách thể chế và
tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
4. Nhiều giải pháp đặc thù đã được triển khai thích hợp
Sớm nắm bắt nhu cầu nền kinh tế và các động thái thị trường thế giới, năm 2009, Việt
Nam đã và đang triển khai nhiều chính sách đặc thù thích hợp, trong đó điển hình là tổ
hợp các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh
đã tỏ ra có vai trò nhất định tác động tốt đến môi trường kinh doanh và kết quả ổn định
kinh tế - xã hội chung.
Ngoài ra, việc tăng cường sản xuất và tiêu thụ hướng vào thị trường nội địa cũng như
các thị trường mới và áp dụng các cơ chế hành chính rút ngắn khẩn cấp khác, như áp
dụng hình thức chỉ định thầu đối với các dự án cấp bách có hạn mức trên 5 tỷ đồng theo
văn bản số 229/TTg-KTN của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 16/02/2009, trên thực
tế cũng đã góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn xây dựng cơ bản, mở rộng đầu tư,
duy trì tăng trưởng, tạo thêm nhiều công ăn, việc làm cho người lao động và tạo đà phát
triển cho các năm tiếp theo
17
Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009 và khuyến nghị chính sách cho năm 2010
(29/12/2009 (ODA) gần 4,5 tỷ USD cho Việt Nam trong năm 2007, mức cao nhất từ trước tới
nay.
5 - Khánh thành nhiều công trình trọng điểm như cầu Bãi cháy, cầu Thi Nại
6 - Ra mắt mô hình các tập đoàn kinh tế đầu tiên như Tập đoàn Bưu chính viễn thông,
Tập đoàn than và khoáng sản, Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ, Tập đoàn điện lực Việt
Nam.
7 - Phanh phui và xử lý nhiều vụ tham nhũng lớn, như vụ tham nhũng tại PMU18, vụ tiêu
cực đất đai tại Đồ Sơn (Hải Phòng), vụ siêu lừa Nguyễn Đức Chi tại dự án Rusalka ở
Khánh Hoà
8 - Thị trường chứng khoán bùng nổ với nhiều doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch; chỉ
số chứng khoán VN-Index vào những ngày cuối năm đã có lúc lên trên 800 điểm.
9 - Bước đầu tiến hành điều tiết giá cả theo cơ chế thị trường như điều chỉnh giá giá xăng
theo tình hình giá cả lên xuống của thị trường thế giới, tăng giá than, điện
10 - Thiên tai, dịch bệnh hoành hành vào những tháng cuối năm gây thiệt hại lớn về
người và tài sản, đặc biệt bệnh vàng lùn xoắn lá làm thiệt hại 2 triệu tấn lúa, ảnh hưởng
đến xuất khẩu gạo nói chung và dịch cúm gia cầm tái phát ở các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long.
TTXVN
Thứ tư, 26 Tháng mười hai 2007,
Theo đó, trong năm 2007 có 23 chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội đạt và vượt kế hoạch:
GDP tăng 8,5% (KH là 8,2 đến 8,5%); GDP bình quân đầu người đạt 723 USD Nhiều
chỉ tiêu phát triển xã hội cũng đạt mức cao như: Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, kết
quả tuyển mới cao đẳng và trung cấp tăng,
Tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhiều lần nhấn mạnh: Năm 2008 sắp tới có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, là năm bản lề của kế hoạch 5 năm
2006-2010.
Chính phủ phấn đấu ngay trong năm này hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu chủ yếu của kế
hoạch kinh tế - xã hội toàn giai đoạn; quyết tâm đến cuối năm 2008, GDP bình quân đầu
người đạt khoảng 960 USD, đưa Việt Nam ra khỏi ngưỡng nước đang phát triển có thu
nhập thấp.
Thứ hai, có người còn chưa hiểu đúng về cách phân loại kinh tế các nước theo thu
nhập tại từng thời điểm. WB đã phân loại các nước năm 2009/2010 thành các nhóm
nước/vùng lãnh thổ theo mức GNI năm 2008:
(1) Nhóm nước có thu nhập thấp (có GNI dưới 975 Đô la Mỹ/người);
(2) Nhóm nước có thu nhập trung bình (có GNI từ khoảng 976 Đô la Mỹ/người đến
11.905 Đô la Mỹ/người, trong đó có hai phân nhóm trung bình thấp từ 3.855 Đô la
Mỹ/người trở xuống và trung bình cao);
(3) Nhóm nước có thu nhập cao (trên 11.906 Đô la Mỹ/người).
Như vậy, trong phân loại năm 2010 dựa vào số liệu GNI 2008, Việt Nam chưa thuộc
18
nhóm nước thu nhập trung bình (890 Đô la Mỹ/người so mức ít nhất là 975 Đô la
Mỹ/người), mà mới chỉ bằng 91,3% của ngưỡng trên của nhóm nước thu nhập thấp.
Theo các chuyên gia Tổng cục Thống kê, do GDP bình quân chỉ tăng chút ít (1.047 Đô
la Mỹ/người năm 2008 và 1.055 Đô la Mỹ/người năm 2009), có thể ước đoán GNI 2009
bình quân của nước ta cũng chỉ khoảng trên dưới 900 Đô la Mỹ/người. Do đó, nếu tính cả
các yếu tố lạm phát, tỷ giá, tăng trưởng thực, có thể dự đoán sau năm 2010, mức GNI
bình quân vượt 1.000 Đô la Mỹ/người và Việt Nam có thể vững chắc đứng trong nhóm
các nước thu nhập trung bình (thấp).
Trong 10 năm qua (1997-2007), thu nhập bình quân GNI Việt Nam tăng gần ba lần (từ
gần 300 lên gần 900 Đô la Mỹ), trong khi thu nhập trung bình GNI thế giới cùng kỳ đã
tăng gấp rưỡi (từ 5.130 lên 7.958 Đô la Mỹ). Thu nhập trung bình GNI thế giới năm 2008
là 8.613 Đô la Mỹ/người, lớn hơn mức thu nhập trung bình GNI Việt Nam đến gần 10
lần. Để vượt qua khoảng cách “tụt hậu” này có lẽ cần nhiều thời gian hơn ta muốn, bởi lẽ
khi nước ta tăng trưởng nhanh, thì thế giới cũng không dừng lại.
Các đợt lạm phát từ 1986 đến nay
Câu chuyện lạm phát ở Việt Nam không phải là mới. Đã từng có thời kỳ tỉ lệ lạm phát lên
đến 3 chữ số. Nguyên nhân và giải pháp của mỗi thời kỳ cũng có những điểm giống nhau
và khác nhau. VietNamNet xin giới thiệu loạt bài của TS. Võ Hùng Dũng, Giám đốc
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ, trong đó so sánh lạm
phát qua các thời kỳ, đồng thời phân tích lạm phát trong mối quan hệ với chính sách nông
nghiệp - nông thôn.
Đổi tiền và lạm phát năm 1986
Gọi là lạm phát năm 1986 vì đó là năm có tỉ lệ tăng cao nhất, nhưng lạm phát thực sự đã
xuất hiện từ nhiều năm trước đó. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 1981-1985 lần lượt tăng
là: 70%, 95%, 50%, 65% và 92%. Chỉ có điều lúc đó không ai thừa nhận có lạm phát
trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích, bàn luận
công khai. Không có giải pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến
khi xảy ra cuộc đổi tiền vào năm 1985.
Có lẽ có quan niệm cho rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc Việt Nam và lạm
phát sẽ chấm dứt nên mới có qui định “Sức mua của đồng tiền mới bằng 10 lần sức mua
của đồng tiền cũ” (Quyết định 01/HĐBT-TĐ ngày 13/9/1985). Nhưng sau đổi tiền, CPI
năm 1985 tăng đến 92%, năm 1986 lên tới 775%, nền kinh tế bước vào thời kỳ lạm phát
dữ dội với tỉ lệ tăng 3 chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo.
Phải đến cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm
phát mới được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là
việc lần đầu tiên mạnh tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ
chế linh hoạt đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Trước tháng 12/1988, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank công bố thường thấp hơn thị
19
trường tự do hàng chục lần. Các công ty xuất khẩu lẩn tránh việc đưa ngoại tệ vào ngân
hàng bằng cách nhập khẩu hàng hóa quay vòng. Vào tháng 12/1987, Vietcombank công
bố tỷ giá ngoại tệ là 3.000 đồng/USD. Đây là bước tăng vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công
bố từ đầu năm, tuy vẫn còn thấp hơn mức giá 4.300 đồng ở thị trường tự do. Trong các
tháng tiếp theo, tỷ giá được điều chỉnh với biên độ chênh lệch khoảng 10% so với giá thị
trường.
Sự thay đổi tỉ giá đã có tác động rất mạnh đến cán cân thương mại. Nếu chỉ xét trong khu
vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 bình quân tăng
50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức giảm mạnh từ 47,6% trong
năm 1986 xuống gần như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có xuất siêu vào năm
1990.
Năm 1986 1988 1989 1990 1991
Nhập siêu -47,6% -30% -0,8% +2,5% -3,2%
Đến cơn sốt tín dụng đầu thập kỷ 1990
Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ tín
dụng ra đời để huy động vốn, cho vay lòng vòng, sau một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết
kiệm năm 1989 cực kỳ cao, có lúc lên đến hơn 12%/tháng cùng với cơ chế rất thoáng. Lãi
suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/tháng, cuối năm giảm xuống còn xấp xỉ 4%/tháng
và duy trì ở mức trên dưới 3%/tháng trong các năm từ 90 đến 92.
Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó cũng còn hết sức gay gắt, mặc dù lạm phát đã giảm
mạnh so các năm 86-88. Tỷ giá VND/USD tăng vọt lên trên 13.000 VND/USD trong
tháng cuối năm 1991, giảm đột ngột còn 11.000 VND/USD đến năm 1992, sau đó và
được neo giữ ở mức thấp trong suốt nhiều năm từ 1992 đến 1996 trong khoảng từ 10.500
đến 11.000 VND/USD.
Tình trạng lỗ lãi, nợ nần mà không có cơ chế phá sản làm cho hàng loạt công ty đang
hoạt động hết sức khốn đốn. Chính phủ đã ra quyết định lập Ban thanh toán công nợ quốc
gia để thanh toán chéo nhưng kết quả không đáng kể.
Nội lực của nền kinh tế bị thương tổn nghiêm trọng. Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992
đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997 thì giảm dần. Một số báo cáo cho rằng do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á. Đó là cách lý giải mà ngay từ lúc đó cũng không
có sức thuyết phục. Dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ các năm đó lớn hơn là ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ giá
đồng nội tệ cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI thế giới đang hướng
mạnh vào.
20
Thâm hụt thương mại do tỷ giá và cũng được giải quyết bởi tỷ giá (Số liệu do tác giả tính
toán).
Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997
Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời gian dài
từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng
để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995.
Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ
diệu. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh để chỉ còn -1% vào năm
2000.
Các năm 1999-2000 chỉ số giá chỉ tăng 0,1% và -0,6%. Tăng trưởng của GDP cũng thấp:
4,8% năm 1999 và 6,7% năm 2000. Giải pháp được đưa ra lúc này là kích cầu tăng
trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Chi
tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005.
Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay
(2007). Từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng.
21
Tốc độ tăng trưởng GDP thống kê qua các năm và ước tính cho 2008 (Số liệu do tác giả
cung cấp).
Đến hôm nay lạm phát quay trở lại 2008
Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào
năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm 2007
dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh
mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”.
Nếu nhìn lại trong vòng 3 thập kỷ qua, tính chu kỳ của nền kinh tế bộc lộ rõ hơn: cứ 10
năm lặp lại một lần. Suy thoái diễn ra vào các năm x7, x8 sau khi đạt được đỉnh tăng
trưởng trong các năm x4, x5, x6. Tuy nhiên, đến nay liệu chúng ta đã có đủ kinh nghiệm
để không bị cuốn theo chu kỳ?
Kiểm chứng về chính sách từ lạm phát và hậu lạm phát năm 86 đến nay, cho thấy những
lúc khó khăn nhất thì có nhiều tiếng nói và có sự lắng nghe hơn, xuất hiện những cải cách
mạnh mẽ. Nhưng vào những lúc nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao dần thì
nhiều quyết định được đưa ra rất bất ngờ, ít được tham vấn, tiếng nói đóng góp cũng ít
xuất hiện. Phải chăng đây là căn bệnh cố hữu không thể vượt qua?
thời báo kinh tế VN
Lạm phát và những giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nguy cơ tỷ lệ
lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng hai tháng đầu
năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. Nếu chúng ta dùng các biện pháp tác động
tích cực thì tỷ lệ lạm phát năm 2008 có thể xoay quanh mức17%.
Nhận diện lạm phát ở Việt nam
Lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm
phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát càng trở nên phức tạp.
22
Lạm phát tiền tệ
Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên
việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém
dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường
nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.
Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau:
Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn. Chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm
trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường xá, cầu
cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai Trong đó có nhiều các
vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu
quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị
trường.
Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị như Ngân
hàng Nhà nước, hệ thống các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, Công ty bảo hiểm, liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền cần có (D)
để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang có trên thị
trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T) mà còn phụ
thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công thức: D = T . V.
Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định trong một
thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D, các nhà quản
lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này rấ quan trọng cả
đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
Song việc có nhiều thành viên tham gia vào cơ chế lưu hành tiền tệ như trên đã khiến cho
công tác quản lý trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Nhiều cơ sở ngân hàng, phi ngân
hàng tham gia kinh doanh tiền tệ thường chỉ quan tâm tới lợi nhuận, tới vốn. Do vậy vòng
quay tiền mặt ít được chú ý, khiến cho việc quản lý V càng khó khăn phức tạp hơn. Khi
có nhu cầu tăng D, thay vì việc tìm giải pháp tăng vòng quay đồng tiền (V) lại tăng lượng
cung tiền mặt vào lưu thông, làm cho lượng tiền mặt có trong lưu thông (T) thường xuyên
tăng lên. Lượng tiền nhiều trong lưu thông khiến cho thu chi tiền mặt dễ dàng, xuất hiện
toạ chi ở nhiều doanh nghiệp, vòng quay đồng tiền (V) thực tế đã tăng lên. Điều này
khiến cho D càng lớn gây mất cân đối trầm trọng giữa tiền (D) và hàng, làm lạm phát gia
tăng đột biến.
Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều
hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó
đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị
trường tăng lên.
(21/05/2008) Thời báo kinh tế VN
23
Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển mạnh
trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi trong
dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân hàng,
rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư nước
ngoài,
Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người dân trước
giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn của mình,
các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại quý, đá quý
khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một lượng tiền lớn được
tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn.
Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T) tăng lên
quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có.
Lạm phát cầu kéo
Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại lạm phát
này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do tốc độ phát
triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng
đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển nóng khiến cho
nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên
tục với tỷ lệ cao. Năm 2006, 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển
nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu
(năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải,
công trình – dự án chậm tiến độ ). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ
tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn
nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn.
Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật
liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng lên
đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều
loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá
của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền
kinh tế tới lạm phát.
Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong
nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong
nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá,
luyện cán thép sắp tới là ngành điện.
Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có khác nhau.
Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá dầu chỉ là
yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng nóng như Việt
24
Nam, Trung Quốc, ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập
khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập
cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó.
Tăng trưởng GDP 2008 thấp hơn mức đã công bố
Cập nhật lúc 21h45, ngày 27/03/2009
Hanoinet - Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 chỉ
đạt 489.800 tỷ đồng, giảm 1.400 tỷ đồng so với con
số ước tính đã công bố cuối năm ngoái.
Số liệu cập nhật mới nhất của Tổng cục Thống kê cho
thấy, tăng trưởng GDP thực tế của năm 2008 thấp hơn
so với mức công bố sơ bộ hồi cuối năm 2008.
Cụ thể, tăng trưởng kinh tế 2008 chỉ đạt 6,18% so với mức 6,23% công bố cuối năm 2008.
Nguyên nhân sự điều chính giảm là do số liệu cập nhật mới trong các lĩnh vực sản xuất, thương
mại và đầu tư, công nghiệp và xây dựng.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 chỉ đạt 489.800 tỷ đồng, giảm 1.400 tỷ đồng so với con số
ước tính đã công bố cuối năm ngoái. Trong các khu vực chỉ có nông lâm thủy sản tăng lên từ
3,8% của cuối năm ngoái tăng lên 4,07%. Các khu vực khác như công nghiệp và xây dựng giảm
6,33% xuống 6,11%; dịch vụ giảm từ 7,2% xuống 7,18%./
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm 2008 cũng giảm 221 triệu USD so với ước
tính, chỉ đạt 62,7 tỷ USD. Nhập khẩu cao hơn 298 triệu USD, lên mức 80,7 tỷ USD, khiến nhập
siêu bị nâng thành 18 tỷ USD thay vì 17,5 tỷ USD.
Trong báo cáo kinh tế sơ bộ qúy 1/2008, Tổng cục Thống kê cũng cho biết, GDP quý đầu tiên
của năm 2008 chỉ tăng 3,1% so vơi mục tiêu 6 - 6,5% đề ra.
Theo VNN
Tình hình kinh tế- xã hội năm 2009 (08:04 31/12/2009)
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng
tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy
thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động
tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy
ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
25
Kinh tế vẫn trong đà suy giảm. (Ảnh: VNN)