Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những sắc màu thi ca trên dòng sông đất nước _2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.95 KB, 8 trang )

Những sắc màu thi ca trên
dòng sông đất nước





Trong số những tác phẩm văn chương được tuyển chọn và giảng
dạy trong chương trình Trung học cơ sở, chương Đất nước trích trong
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm(1) không thuộc
vào số những tác phẩm gây nhiều tranh cãi. Không chứa đựng những
hình tượng thơ huyên náo, những lớp ngôn từ cổ xưa và hàm xúc đến
mức trở thành bí ẩn, ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu và giảng
dạy văn học là thống nhất trong cách đánh giá cũng như cách hiểu tác
phẩm: một áng thơ trữ tình – chính luận đặc sắc, tiêu biểu cho sáng tác
của những nhà thơ trẻ thế hệ chống Mỹ cứu nước. Đoạn thơ chứa đựng
sự gặp gỡ của những yếu tố văn hoá, văn học dân gian với một tư duy
thơ hiện đại, với những cảm nhận, suy tư sâu sắc về Đất nước chứa đựng
trong tư tưởng chủ đạo được thể hiện trực tiếp trong tác phẩm: Đất nước
của Nhân dân. Toàn tác phẩm là một bản tụng ca mà hình tượng trung tâm
là Đất nước, một Đất nước được tạo dựng bởi tầng tầng lớp lớp những
con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”, một Đất nước được cảm
nhận qua không gian và thời gian, qua những tầng sâu văn hoá, qua sự
thống nhất, hoà quyện giữa cuộc sống thầm kín cá nhân và của cộng
đồng dân tộc – cái siêu cá nhân. Qua những gì đã được thể hiện trong các
sách giảng văn, văn mẫu, sách hướng dẫn giảng dạy dành cho giáo viên,
có cảm giác dường như là chỉ cần nắm được những điều đó là đã có thể
đi được đến tận cùng chiều sâu Đất nước. Nhưng phải chăng toàn bộ giá
trị của một tác phẩm văn chương, dẫu là thơ trữ tình-chính luận, cũng chỉ
chứa đựng trong sự độc đáo và sâu sắc của một tư tưởng? Và phải chăng
tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật ngôn từ chỉ đồng nghĩa với việc phân tích


đến hết kiệt một tư tưởng – dẫu đó là tư tưởng chủ đạo, tư tưởng trung
tâm của tác phẩm?

Tuyệt đại bộ phận những nhà nghiên cứu, phê bình văn học khi phân
tích trích đoạn thơ Đất nước đều nhấn mạnh đến sự xuất hiện dày đặc của
những yếu tố được chắt lọc từ kho tàng văn hoá, văn học dân gian trong
văn bản thơ. Điều này là không thể chối cãi. Một học sinh đã qua bậc
Trung học cơ sở với học lực khá và có một vốn hiểu biết nhất định về văn
hoá, văn học dân gian là có thể nhận diện và thống kê được tần số xuất
hiện của những yếu tố này trên văn bản thơ. Tuy nhiên, xét về mặt thể
loại, lại thấy rằng trong tổng số 89 câu thơ, ngoại trừ hai câu biến thể từ
một bài ca dao (Hàng năm ăn đâu làm đâu- Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ
tổ) gần như tuyệt đối không có bất cứ dấu vết của một thể loại thơ ca dân
gian nào hiện diện trên văn bản ngôn từ. Cách lý giải thuận tiện nhất là
quy cho tài năng nghệ thuật của nhà thơ, người đã biết sử dụng một cách
sáng tạo chất liệu văn học dân gian. Tuy nhiên, nếu đặt trong hoàn cảnh
một trích đoạn thơ thể hiện tập trung tư tưởng “Đất nước của Nhân dân-
Đất nước của ca dao thần thoại (chúng tôi nhấn mạnh)” thì sự vắng mặt
này, theo chúng tôi là một hiện tượng không bình thường, nhất là khi so
sánh với một số tác phẩm khác cùng thời và cùng mạch chủ đề, chẳng
hạn, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy. Từ một phía khác, nếu khảo sát tổng
thể 89 câu thơ, có thể thấy một sự xuất hiện với tần số cao của phép đối:
18 câu thơ, chiếm tỷ lệ gần 20% tổng số câu thơ. Thủ pháp này có thể hiện
diện dưới hình thức tiểu đối trong nội bộ một số câu thơ kiểu “Khi ta lớn
lên/Đất nước đã có rồi” hoặc những cặp câu đối khá chỉnh theo cái nhìn
của từ chương học phương Đông như :

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”


hoặc khó nhận diện hơn, là những đoạn thơ, mà nếu tổ chức lại sẽ
trở thành những cặp câu mang dáng dấp đối khá rõ dù số lượng âm tiết
trong từng vế không hoàn toàn trùng khớp :

Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi hai đứa cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn

Một thủ pháp nghệ thuật vốn là đặc trưng của văn chương bác học
Trung đại Việt Nam và Trung Quốc lại xuất hiện trong tác phẩm thơ ca
hiện đại của một tác giả trẻ với một tần số cao, theo chúng tôi, chắc chắn
không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Chúng tôi nhất trí với ý kiến của
nhà phê bình Phan Ngọc khi ông cho rằng nghệ thuật, vốn tự bản chất là
một sự lựa chọn(2). Từ phía người nghệ sĩ, sự lựa chọn đó có thể diễn ra
một cách vô thức dưới sự tác động của cảm hứng nghệ thuật và vốn văn
hoá và công việc của người nghiên cứu, không gì khác hơn, là chỉ ra
logique của sự lựa chọn đó. Nếu không, khoa học về văn chương không
có lý do tồn tại. Trên một cái nhìn tổng thể hơn, chúng tôi cho rằng âm
hưởng hoà quyện giữa sự tha thiết, trang nghiêm của cảm xúc với những
trầm lắng của suy tư (một sắc thái thẩm mỹ không dễ tìm thấy trong văn
học dân gian) chắc chắn không chỉ bắt nguồn từ nguồn mạch văn hoá,
văn học dân gian. Vấn đề là phải tìm thấy cái mạch ngầm văn bản, cái sức
mạnh âm thầm đã làm nên vẻ đẹp cho Đất nước.

Đã trở thành một quy ước, khi phân tích, bình giảng cũng như khi
giảng dạy, trích đoạn thơ Đất nước thường được chia thành hai phần lớn.
Phần thứ nhất bao gồm 42 câu thơ gắn với cảm nhận về Đất nước trên
chiều rộng “mênh mông” của không gian và chiều dài “đằng đẵng” của
thời gian lịch sử văn hoá với “sự thống nhất của những phương diện văn

hoá, truyền thống, phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời
sống của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng”. Phần thứ hai của trích đoạn
qui tụ về tư tưởng trung tâm “Đất nước của Nhân dân Đất nước của ca
dao thần thoại”(3). Sự phân chia này là chính xác và đặc biệt là tương ứng
với việc phân tích nội dung, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Có điều, đó
không phải là cách phân đoạn duy nhất. Theo chúng tôi, nếu lấy cơ sở là
sự vận động của dòng cảm xúc- suy tư của chủ thể trữ tình, hoàn toàn có
thể phân chia phân đoạn thơ thành chín phân đoạn nhỏ, dù sự phân tách
này không hiện diện bằng vật chất trên bề mặt văn bản. Từ điểm nhìn này
sẽ thấy toàn bộ trích đoạn thơ hiển hiện như một dòng chảy cuồn cuộn
nối tiếp nhau của những cảm xúc, những thức nhận về Đất nước gắn với
những hình ảnh cụ thể về từng phương diện của Đất nước hiển hiện trong
đời sống của mỗi cá nhân. Đó có thể là thức nhận về cội nguồn Đất nước
hiện diện trong đời sống của mỗi gia đình Việt (đoạn 1), là nỗi bâng
khuâng về một Đất nước – kỷ niệm, tình yêu (đoạn 2), là cảm nhận về Đất
nước – huyền thoại, Đất nước – văn hoá, Đất nước của những lớp người
“những ai đã khuất – Những ai bây giờ” đang hoà trộn trong “máu xương
của mình” (đoạn 3) Và ở đây sẽ thấy xuất hiện một nhân tố quan trọng tổ
chức mạch xúc cảm và làm nên vẻ đẹp của tổng thể tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ: nhịp điệu.

Có nhiều yếu tố tham gia vào quá trình hình thành nên một tác phẩm
nghệ thuật thi ca: chữ và nghĩa trong thơ, hình tượng thơ, những yếu tố
ngữ âm như thanh điệu, vần hay nhịp điệu Trong từng tác phẩm cụ thể
sẽ có một yếu tố mang tính nổi trội, chi phối sự tổ chức những yếu tố
khác, tạo nên cái chủ âm về mặt hình thức của tác phẩm (la dominante) –
một sáng tạo của chủ nghĩa hình thức Nga(4) – và mang lại vẻ đẹp mang
tính đặc thù cho toàn bộ tác phẩm thơ. Theo chúng tôi, yếu tố “chủ âm”
trong trích đoạn Đất nước chính là nhịp điệu. Chính nhịp điệu là nhân tố
quan trọng nhất tổ chức cấu trúc tổng thể các hình tượng thơ và thể hiện

sự vận động của mạch cảm xúc-suy tư trong tác phẩm. Ngay trong sách
Hướng dẫn giảng dạy giành cho giáo viên, phần Văn học Việt Nam, lớp 12,
khi viết về Cảm nhận chung về đoạn thơ, các tác giả cũng đã lưu ý về tính
linh hoạt về nhịp điệu của tác phẩm. Vấn đề là tìm hiểu xem tính linh hoạt
về nhịp điệu đó đã được thể hiện thông qua những con đường nào. Theo
chúng tôi, có bốn thủ pháp chính phối hợp tạo nên nhịp điệu cho toàn bộ
trích đoạn thơ: sự đối lập về số lượng âm tiết giữa các câu thơ, hay nói
cách khác, sự luân phiên các câu ngắn - dài (một yếu tố hình thức gợi nhớ
đến thể phú và văn biền ngẫu thời Trung đại); việc sử dụng thủ pháp đối;
sự phân xuất câu thơ - văn xuôi mang tính chính luận thành nhiều dòng
thơ và việc sử dụng thủ pháp trùng điệp. Một ví dụ dễ thấy, đó là đoạn thơ
thứ hai, theo cách phân đoạn của chúng tôi:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi chúng ta hò hẹn
Đất là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Vượt lên trên nội dung thông tin của từng câu chữ cụ thể, có hai
hiện tượng đáng chú ý. Thứ nhất, cảm giác “dư ra” của câu thơ thứ tư
khỏi văn mạch của cả đoạn thơ. Ba câu thơ đầu của đoạn được xây dựng
theo mô thức: “Đất là Nước là Đất nước là ”, sau câu thơ thứ tư
sẽ là một chu kỳ lặp lại khác của mô thức này. Thứ hai, đó là sự đối lập về
số lượng âm tiết giữa câu thơ thứ tư và ba câu thơ còn lại. Chính sự “dư
ra” khỏi mô thức ngữ pháp, sự đối lập về số lượng âm tiết cũng như việc
kết thúc câu thơ bằng một thanh bằng đã gợi nên cái cảm giác bâng
khuâng của những kỷ niệm riêng tư trong toàn bộ đoạn thơ - điều không
biểu hiện trực tiếp trên ngôn liệu của văn bản.
Một hiện tượng khác, xuất hiện với một tần số cao trong tác phẩm,
đó là sự phân tách thành nhiều dòng thơ của câu thơ-văn xuôi chính luận

(hiện diện trên 48 câu thơ chiếm gần 53% tổng số câu thơ)(5) và sự sử
dụng thủ pháp trùng điệp (35 câu thơ, chiếm gần 40%)(6). Đáng chú ý là
những thủ pháp này thường được phối hợp để tạo thành sức mạnh gợi
cảm cho toàn phân đoạn thơ. Bốn câu thơ kết thúc của phân đoạn thứ
năm chính là một minh chứng của điều này:

Em ơi Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân trong dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời

Nếu thêm vào đoạn thơ trên một số hư từ mang chức năng lập luận
như “vì, nên, để”, hoàn toàn có thể khôi phục lại một câu văn chính luận
hoàn chỉnh. Chính sự tỉnh lược của những hư từ kéo theo sự phân rã của
câu văn xuôi chính luận cùng với việc sử dụng điệp ngữ đã tạo nên nhịp
điệu dồn nén của một sự tự ý thức thiêng liêng của đoạn thơ. Cũng bằng
con đường này (chứ không chỉ bằng sức mạnh ngữ nghĩa) mà nhiều câu
thơ như:

Để Đất nước này là Đất nước Nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

đã trở thành những điểm tập trung năng lượng cảm xúc, những điểm
nhấn, hay chính xác hơn, những cao trào, về nhịp điệu trong dòng chảy
của ngôn từ thơ. Trên một phương diện, điều này làm nhớ đến những ý
tưởng về thơ của ngữ pháp và ngữ pháp của thơ mà R. Jakobson đã từng
phát biểu(7). Có thể nói chính những yếu tố hình thức ngôn ngữ này (sự
phân đoạn, điệp ngữ) đã cho phép người tiếp nhận, trong tận cùng cảm
giác, thậm chí cả bằng vô thức, cảm nhận về một Đất nước, như một thứ
trầm tích được đắp bồi bởi tầng tầng lớp lớp những con người vô danh;

một Đất nước, như dòng sông chảy xuyên qua lịch sử với những khúc
quanh khi bình lặng, bâng khuâng, khi cuồn cuộn dồn nén. Vậy là chính
những vận động của một ngôn ngữ tuyến tính một cách tất định đã lại góp
phần tạo nên cái cảm giác mang tính tạo hình về hình tượng Đất nước
được triển khai trên cả hai chiều.

Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông

×