Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
124
• Phương pháp kiểm tra bên trong ñàn ong.
+ Kiểm tra ñiểm: Là kiểm tra một số ñàn ong ñiển hình, những ñàn ong này cũng chỉ kiểm tra một vài
cầu. Kiểm tra ñiểm không ñịnh kỳ, vì ñó là cách kiểm tra nhanh từ ñiểm suy ra diện rộng ñể nắm khái
quát tình hình ñàn ong trong trại. Kiểm tra ñiểm cũng thường ñược áp dụng ñể nắm một vấn ñề nào ñó
của ñàn ong như tình hình ñổ mật, khả năng xây bánh tổ. Khả năng nuôi chúa, khả năng chia ñàn và
tình hình bệnh. Kiểm tra ñiểm thường chỉ ghi chép nhận xét chung.
+ Kiểm tra toàn bộ: Là kiểm tra tất cả các cầu và tất cả các ñàn ong. Trong trại nuôi ong nghiên cứu
hoặc các trung tâm giống, cần kiểm tra ñịnh kì có thể là mỗi tháng một lần. Còn nuôi sản xuất thì kiểm
tra toàn bộ trước mỗi vụ như ñầu xuân ñể xử lí trước vụ mật, cuối vụ mật hè ñể chuẩn bị qua hè
kiểm tra toàn bộ cần ghi chép tất cả các số liệu về thế ñàn, số cầu con, tình hình thức ăn, chúa ñẻ, sâu
bệnh
+ Các bước tiến hành kiểm tra ñàn ong:
- Chuẩn bị dụng cụ, sổ sách ghi chép, bình phun khói ñể phòng ong dữ, dao sửa cầu, chổi dọn vệ sinh,
dụng cụ xử lí bệnh - mùa nhân ñàn cần chuẩn bị thùng ong, lồng chúa và cầu ñã gắn tầng chân.
- Thao tác khi kiểm tra: Khi kiểm tra toàn bộ nên có hai người, một người kiểm tra, một người ghi
chép, giúp việc. Khi kiểm tra ñứng về phía ván ngăn, mở nắp thùng nhẹ nhàng, nắp có ong phải ñể
ngửa trước cửa thùng cho ong bò vào thùng. Sau ñó lấy vật chống rét ra (nếu có), dùng ngón tay tách
ván ngăn ra khoảng 2 - 3 cm, lấy cầu thứ nhất ra kiểm tra, khi kiểm tra phải nắm chắc tai cầu, khi cần
dùng panh, dao xử lí cầu thì tì một góc cầu xuống mặt xà các cầu khác. Cầu kiểm tra không ñược nhấc
ra khỏi mặt thùng và luôn luôn giữ ở ñộ nghiêng khoảng 30 - 35
o
so với mặt thùng và cách mặt thùng
khoảng vừa tầm nhìn của người kiểm tra. Cần kiểm tra kỹ lưỡng trứng, ấu trùng, nhộng, lượng mật,
phấn. Sau khi kiểm tra xong mặt thứ nhất thì xoay sang mặt thứ hai. Khi xoay cũng phải giữ cầu ong
vuông góc với mặt ñất ñể phấn, mật và ong chúa không bị rơi ra ngoài.
Kiểm tra xong cầu thứ nhất thì ñặt sát ván ngăn. Sau ñó xem cầu thứ 2, sau khi kiểm tra xong
cầu thứ 2 thì ñặt cách cầu thứ nhất một khoảng cách vừa bằng 1 cm. Cứ làm như thế ñến cầu cuối
cùng, sau ñó dọn vệ sinh dưới ñáy thùng (dùng chổi quét rồi thổi cho rác rưởi bay ra ngoài cửa). Khi
kiểm tra số lượng ñàn ong lớn cần làm nhanh nhưng không bỏ sót, muốn vậy cần thao tác nhanh. Khi
ổn ñịnh trở lại dùng các kẽ ngón tay kẹp ñẩy 3 - 4 cầu một lúc vào sát vách thùng.
Khi kiểm tra bị ong ñốt phải rửa sạch tay rồi mới kiểm tra tiếp. Nếu gặp ñàn bệnh phải kiểm
tra sau cùng, nếu ñã chót kiểm tra thì phải rửa tay bằng xà phòng, lau khô rồi mới kiểm tra ñàn khác.
• Xử lí ong khi kiểm tra.
- Khi kiểm tra thấy ong chạy tụt xuống phải xem kỹ tình hình bệnh.
- Phải ghi chép kỹ những ñàn cần cho ăn , xây tầng chân.
- Khi kiểm tra cần loại bỏ những cầu xấu, ñiều chỉnh ong nếu cần, cắt bỏ lỗ tổ ong ñực, gọt bỏ phần lỗ
tổ cũ và mốc.
- ðảo cầu theo thời vụ, nói chung cầu ấu trùng cần ñặt vào giữa. Cầu trống thì ñặt vào nơi ong chúa
hoạt ñộng (mùa ñông ở giữa ñàn, mùa hè ở sát ván ngăn hoặc gần cầu sát thành thùng). Cầu mật và
phấn ñặt ngoài cùng.
- Vụ mật nới rộng khoảng cách các cầu khi kiểm tra và qua hè qua ñông thì ngược lại.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
125
Nếu ong chúa bay khi kiểm tra thì cần ngừng kiểm tra, rũ nhẹ một cầu ong lên trên thùng ñể
ong chúa theo ong thợ vào tổ.
Gặp ñàn ong quá dữ có thể dùng khói nhẹ ñể phun nhưng nói chung kiểm tra nhẹ nhàng
không làm chết ong thì ong ít dữ , những ñàn dữ kiểm tra sau cùng.
c. Cho ong xây bánh tổ mới.
• Mục ñích.
Xây tổ là bản năng của loài ong. Khi xây tổ ong cần tốn nhiều năng lượng ñể tiết sáp và làm
mềm sáp cho nên không phải lúc nào ong cũng xây ñược bánh tổ. Bánh tổ là nguyên liệu sản xuất ra
sáp ong ñể sản xuất tầng chân và từ tầng chân lại cho ong xây bánh tổ mới . Bánh tổ mới kích thích
ong chúa ñẻ làm cho ñàn ong phát triển nhanh. Bánh tổ cũ dễ bị ñen làm ñổi màu mật khi thu hoạch.
Sau mỗi lần lột xác, phân của ấu trùng và áo kén của nhộng ñể lại ,cho nên sau một thời gian thì các lỗ
tổ nhỏ lại. Vì vậy dùng bánh tổ cũ ,cơ thể ong thợ sẽ nhỏ dần. Bánh tổ cũ cũng là nơi tiềm ẩn của các
nha bào gây bệnh. vì vậy phải thay bánh tổ cũ ít nhất mỗi năm một lần.
Trong tự nhiên ong cũng tự thay bánh tổ bằng cách cắn bỏ những bánh tổ cũ, và bị sâu ăn sáp.
Khi bị sâu phá nặng và bánh tổ quá cũ thì ong bốc bay ñể tìm nơi xây bánh tổ mới. Nuôi ong cổ truyền
thì bánh tổ ñược thay thế sau mỗi lần cắt mật.
Ngày nay nhờ có tiến bộ về khoa học kỹ thuật nuôi ong cho nên việc sử dụng tầng chân cho
ong xây tầng ñược phổ biến trong các vùng nuôi ong. Tầng chân nhân tạo là một tờ sáp ong nguyên
chất có in rõ ñáy lỗ tổ ong bằng ñúng kích thước lỗ tổ ong tự nhiên, vì vậy ñàn ong xây tầng nhanh.
Tầng chân ñược gắn trong khung cầu nhờ có 3 hàng dây thép nên bánh tổ không bị vỡ khi quay mật.
Nhờ có kích thước ñồng ñều ñàn ong không xây lỗ ong ñực trên mặt cầu. Tuy vậy khi xây dựng cầu
cần chú ý mỗi loài ong có cỡ tầng chân thích hợp. Việc cho ong xây tầng, thay bánh tổ kịp thời là một
trong những biện pháp kĩ thuật quan trọng của nghề nuôi ong.
• Những biện pháp cho ong xây bánh tổ mới.
+ Sửa bánh tổ cũ.
Bánh tổ cũ chưa ñến mức cần loại nhưng qua một thời gian ong giảm sút thế ñàn như qua
ñông, qua hè, cho nên rìa bánh tổ ong không ñậu tới, sáp giòn thì ñầu vụ mật cần cắt gọt ñể ong nới
rộng. Các bảnh tổ có nhiều lỗ ong ñực, bánh tổ lồi lõm, bánh tổ bị sâu ñục thì cần cắt lỗ tổ ong ñực,
dùng panh bắt sâu và nắn lại cho ngay ngắn ñể ñàn ong tự cơi nới, làm như vậy người nuôi ong có thể
tạo ñược nhiều cầu ong tiêu chuẩn (bánh tổ phủ kín mặt cầu).
+ Cho ong xây bánh tổ mới khi không có tầng chân.
Nuôi ong trong ñõ có thanh ngang và nuôi ong trong thùng cải tiến khi không có tầng chân có
thể cho ong xây tầng bằng cách: Khi thấy ñàn ong ñông ñậu ra ngoài bánh tổ thành từng chuỗi, bên
ngoài nguồn hoa phong phú thì ñưa khung cầu hoăc thanh ngang vào giữa ñàn ong ñể chúng xây lưỡi
mèo.Với khung cầu thì trước khi ñưa vào phải căng sẵn dây thép. Nên dùng sáp ñổ một vệt nhỏ chạy
ở dưới xà hoặc thanh ngang tạo ñiều kiện thuận lợi và hấp dẫn ong xây bánh tổ. Ở những ñàn ong
chưa ñông nhưng muốn xây bánh tổ thì cần rút bớt cầu, cho ong ăn. Cũng có thể tận dụng sáp lưỡi
mèo khi ñặt khoảng cách các cầu rộng, ghép vào khung cầu như khi sang thùng. Ong ñã xây bánh tổ
tự nhiên rồi thì kiểm tra nắn cho bánh tổ vào giữa gắn chặt với dây thép.
+ ðiều kiện ñể ong xây tầng tốt:.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
126
ðàn ong phải ñông quân, nhiều ong non và thức ăn. Trong ñàn có nhiều cầu nhộng, ấu trùng,
chúa ñẻ khoẻ, liên tục. Về thời tiết: nhiệt ñội từ 25 - 30
oC
, ẩm ñộ 80 – 85 % . Trong tự nhiên có nguồn
hoa phong phú nhất là nguồn phấn họăc ñầu vụ hoa khi nguồn mật phấn chưa nhiều, nhưng một số
ñàn mạnh có thể xây tầng ñược. Khi kiểm tra cầu ong thấy ong sửa tầng, cơi lỗ tổ ở 2 mép dưới cầu
hoặc xây lưỡi mèo thì ñưa cầu gắn tầng chân vào cho ong xây.
+ Biện pháp kỹ thuật.
Tuỳ theo ñiều kiện cụ thể ở cơ sở nuôi ong người ta có thể áp dụng các biện pháp chính sau ñây:
- Xây tầng ñại trà: Trong mùa mật phấn dồi dào, ñàn ong có chúa mới, có số cầu 3 - 4 cầu (ong nội),
5 cầu (ong ngoại) ong bám ñầy trên mặt cầu, có nhiều nhộng, có thể cho ong xây tầng hàng loạt, ñưa
vào mỗi ñàn từ 1- 2 cầu tầng chân cho ong xây. Cho ăn thêm vào buổi tối ñể kích thích ong xây.
- Sử dụng ñàn chủ công xây tầng: ñối với ñàn mạnh chúa ñẻ khoẻ, có thể viện thêm cầu nhộng già
liên tục ñể tăng lượng ong non tiết sáp, cho ong xây liên tục nhiều cầu ñể cung cấp cho các ñàn khác
hoặc lấy cầu dự trữ. Khi ong ñã tiếp thu và xây 2 mặt vách tổ còn thấp, rút cầu tầng chân ra ñưa ñàn
khác xây tiếp, ñưa tiếp cầu tầng chân mới vào ñàn chủ công. Tuỳ thế ñàn ong có thể ñặt vào vài cầu
xây ñồng thời.
- Sử dụng ong chia ñàn tự nhiên ñể xây tầng: Những ñàn ong chia tự nhiên, sau khi ổn ñịnh, có 2 - 3
cầu có thể ñặt tầng chân cho xây ñể tận dụng “năng lượng chia ñàn” hoặc bồi dưỡng thành ñàn chủ
công xây tầng.
Sau khi gắn tầng chân vào khung cầu ñem ñặt nó vào giữa 2 cầu có ấu trùng mở nắp và cầu
ñang vít nắp nhộng là nơi tập trung nhiều ong non trong tuổi tiết sáp và không ảnh hưởng ñến sự ñẻ
trứng của chúa. Mùa lạnh ñặt cầu tầng chân vào phía trong cho ấm, mùa hè ñặt ra phía ngoài cách ván
ngăn 1- 2 cầu cho mát. Với ong nội khi ñưa cầu tầng chân vào cần bỏ thước kẹp giữa 2 cầu ra, ñể tầng
chân sát vào 2 cầu. Sau 24 - 48 giờ kiểm tra thấy ong ñã xây thì nới rộng khoảng cách giữa cầu tầng
chân và cầu bên cạnh ñể ong xây cao vách lỗ tổ.
+ Chú ý.
Khi kiểm tra thấy ong không xây, cần bỏ cầu tầng chân ra hoặc ñưa vào sát ván ngăn ñể tránh
ong cắn nát hoặc tạo thành vách ngăn, ngăn cản ong chúa qua lại ñẻ trứng và ong thợ làm việc.
- Khi ñiều kiện ngoại cảnh bất thuận (quá lạnh hoặc quá nóng) không nên ñưa tầng chân vào. Với ñàn
quá mạnh hay xây lỗ ong ñực cần chọn tầng chân nguyên vẹn, không bị mốc ñể ong xây nhiều lỗ tổ
ong thợ.
- Cần bổ sung thức ăn ñầy ñủ cho ñàn xây tầng chủ công. Nếu ñang vụ mật mà trời ma ong không ñi
làm ñược hoặc sau vụ mật mà có nguồn phấn dồi dào có thể cho ñàn mạnh ăn no, ñể ong xây bánh tổ
(thường xây 1 bánh tổ cần 0,5 kg ñường).
d. Ong chia ñàn tự nhiên, biện pháp ñề phòng và xử lí.
• Hiện tượng ong chia ñàn tự nhiên.
Tất cả các loài ong mật ñều có những thời kì phát triển trứng, ấu trùng và nhộng ñến mức tối
ña, ñể có số ong trưởng thành rất ñông, dẫn ñến tình trạng ñàn ong khó quản lý sẽ tạo chúa và chuẩn bị
chia ñàn. Mũ chúa ñể chuẩn bị chia ñàn thường ñược xây ở mép dưới của cầu ong, nơi ong thợ tụ tập
ñông và ong chúa không tới ñược.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
127
Hình 1.8- Mũ chúa do ñàn
ong xây tự nhiên.
Số lượng mũ chúa xây
nhiều hay ít phụ thuộc vào giống
ong. Trong mỗi giống thì phụ
thuộc vào mật ñộ ong tính theo
dung tích. Sau khi vượt quá mật
ñộ bình thường, ong bắt ñầu tạo
mũ chúa và tăng lên theo tỷ lệ
thuận với mật ñộ ong, tất nhiên
cũng chỉ tăng có giới hạn. Thư-
ờng thì ong Apis cerana khi chia ñàn tạo từ 8 –10 mũ chúa có trường hợp tạo hơn chục mũ chúa. Sau
khi xây mũ chúa thì ong chúa ñẻ trứng vào ñó, ñôi khi ong thợ tha trứng từ lỗ tổ ong thợ khác tới mũ
chúa (Winston 1987). ấu trùng ong chúa ñược ong thợ nuôi dưỡng chu ñáo, khi kiểm tra thường thấy
một lớp ong thợ phủ dầy quanh mũ chúa. ấu trùng sáng xanh và nổi trên lớp sữa chúa. Mũ chúa thon
dài, sáp vàng ñắp dầy ở ñế mũ chúa. Vì vậy ong chúa tạo ra trong vụ chia ñàn thường rất tốt. Trước
khi chia ñàn vài ngày, ong thợ làm việc uể oải do lượng ấu trùng ñã giảm, công việc nuôi ong chúa
cũng giảm bớt ñể ong chúa nhỏ lại có thể bay ra khỏi tổ khi chia ñàn. Do nhu cầu thức ăn giảm, ong ít
ra ñồng làm việc, lượng ong non tăng lên ñàn ong càng chật chội, ñông ñúc. Ong thợ hút mật ñể chuẩn
bị chia ñàn.
Ngày chia ñàn xảy ra sớm hoặc muộn là tuỳ thuộc vào thời tiết và tuổi của ấu trùng trong mũ
ong chúa. Tuổi ấu trùng cũng tuỳ thuộc vào giống ong, phần lớn các chủng ong A.mellifera chia ñàn
vào lúc mũ chúa ñã vít nắp (khoảng 8 ngày kể từ khi ñẻ trứng). Ong A.cerana ở miền Bắc nước ta chia
ñàn vào lúc mũ chúa vít nắp vài ngày, nhưng nếu gặp trời xấu thì có thể mũ chúa sắp nở thậm chí chúa
nở, ong mới chia ñàn.Trờng hợp bị kìm hãm do bị vặt mũ chúa nhiều lần và ñàn ong quá ñông ñúc thì
có khi mũ chúa chưa vít nắp, có lúc mới có trứng, ong ñã chia ñàn. Trong ngày ong thường chia ñàn
vào buổi sáng 9 – 12 giờ, rất ít gặp ong chia ñàn vào buổi chiều. Ong thường chia ñàn vào những ngày
trời quang, mây tạnh, nhiệt ñộ trên 20
oC
, gió nhẹ. Nếu gặp thời tiết xấu kéo dài, lượng mật giảm nhiều,
mũ chúa bị huỷ thì ong ngừng chia ñàn.
Trước khi chia ñàn ong hút no mật, một bộ phận ong thợ tạo ra âm thanh huyên náo. Chúng
vừa chạy vừa phát ra tín hiệu báo cho cả ñàn việc ra ñi. Số ong phát tín hiệu tăng lên. ðàn ong càng
ngày càng náo ñộng và một bộ phận ong ăn no mật ùn ùn kéo ra khỏi tổ. Chúng bay lên cao vài mét
và lượn quanh cửa tổ. Sau ñó ong chúa ra khỏi tổ và bay ñi cùng bộ phận ong chia ñàn. Ong chia ñàn
thường tụ lại ở cành cây, hiên nhà có lúc ở cả ñáy thùng ong khác, ñó là chỗ dừng chân. Nơi dừng
chân thường gần ñàn ong ở quanh trại chỉ trong vòng vài chục mét và ñậu không cao, nhưng nếu
không có nơi ñậu gần và thấp thì chúng buộc phải bay cao và xa hơn. Khi ong ñang tụ lại như cái mũ
cát treo thì ong chúa bò ra mặt ngoài chùm ong. Nhờ chất chúa, tất cả ñàn ong tụ lại một cách yên lặng
ta thường gọi là “chúa kiểm quân”. Sau ñó ong trinh sát ñi tìm chỗ ở mới. Khi trở về chúng cũng nhảy
múa trên mặt chùm ong báo cho cả ñàn biết tín hiệu về tình hình, khoảng cách và hướng ñến nơi ở
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
128
mới và ñàn ong bay khỏi nơi dừng chân. Như vậy, khác với bốc bay, ong chia ñàn thường ở nơi dừng
chân lâu hơn có khi tới 2 - 3 ngày, vì chưa tìm ñược nơi ở mới. Bộ phận ong bay ñi thường chiếm quá
nửa lượng ong trưởng thành trong ñàn và gồm các lứa tuổi khác nhau. Ong chia ñàn ñến nơi ở mới
thường rất tích cực xây bánh tổ. Lượng mật mang theo một mặt dùng làm năng lượng tiết sáp xây
tầng, mặt khác có thể ñổ vào bánh tổ mới dự trữ. Ở tổ cũ ngay sau khi chia ñàn, bộ phận ong ở lại tiếp
tục làm việc. Khác với ong bốc bay, trong lúc chia ñàn một bộ phận ăn no mật ùn ùn bay ra thì lại có
nhiều ong thợ mang mật, phấn về tổ. Sau khi quá nửa số ong bay ñi ñàn ong còn lại thưa, mũ chúa dễ
phát hiện. Ong chúa nở ñầu tiên tìm các mũ chúa còn lại dùng hàm trên cắn vào sườn mũ chúa rồi
châm chết nhộng ong chúa, nhưng nếu ong còn muốn chia ñàn thì ong thợ bảo vệ không cho ong chúa
phá mũ chúa còn lại và xảy ra hiện tượng chia ñàn lần thứ 2.
Khi chia ñàn lần thứ 2, chúa tơ ra khỏi tổ cùng với nửa số ong còn lại và vài trăm con ong ñực
có khi 2 - 3 con ong chúa cùng nở một lúc và cùng chia ñàn và những ñàn chia ra lại cũng tụ vào một
chỗ. Một chùm ong có 2 - 3 ong chúa. ðàn ong dã sinh có tính chia ñàn mạnh còn có thể chia ñàn lần
thứ 3 - 4. Sau khi chia nhiều lần, ñàn ong quá nhỏ, ñàn ong còn lại cũng nhỏ bé không thu ñược sản
phẩm.
• Những nhân tố thúc ñẩy ong chia ñàn.
Chia ñàn tự nhiên là bản năng của ñàn ong nhằm bảo vệ và phát triển nòi giống nhưng không
có lợi cho người nuôi ong, trước hết là trở ngại cho việc nuôi ong kế và nâng cao hiệu suất công tác
của người nuôi ong. ðàn ong có chúa già sẽ chia ñàn mạnh hơn ñàn chúa trẻ vì ong chúa tiết ra
pheromon ngăn cản ñàn ong tạo ong chúa mới. Khi ong chúa già lượng pheromon giảm hoặc thế ñàn
ong lớn, pheromon không ñủ khả năng kiểm soát ñược ñàn ong và ñàn ong sẽ tạo chúa chia ñàn.
- Trong ñàn có nhiều ấu trùng và nhộng vít nắp, mật và phấn nhiều choán hết mặt bánh tổ. Ong chúa
không có chỗ ñẻ trứng vì không có lỗ tổ trống, ong thợ nhàn rỗi ít lao ñộng nên mật ñộ ong trong tổ
càng trở nên ñông ñúc.
- Khoảng cách giữa các cầu sít nhau làm cho không gian giữa 2 mặt cầu hẹp, thùng ong quá nhỏ
không có khả năng mở rộng không gian trong tổ ong ñều làm cho mật ñộ ong tăng,thúc ñẩy ong chia
ñàn.
- ðặt ong ngoài trời, che nắng kém, thùng ong không ñủ ñộ thông thoáng, thiếu nước cho ong lấy ñể
hạ nhiệt ñộ trong tổ, ñàn ong nóng bức cũng chia ñàn sớm.
• Các biện pháp ñề phòng và xử lí ong chia ñàn tự nhiên.
Các biện pháp ñề phòng:
- Căn cứ vào các nguyên nhân thúc ñẩy ong chia ñàn ñể chủ ñộng phòng tránh. Trước hết người nuôi
ong cần chọn ñàn ong có tính tụ ñàn lớn, ít chia ñàn tự nhiên ñể làm giống. Chú ý thay chúa mỗi năm
2 lần, ñiều chỉnh khoảng cách các cầu ong theo thời vụ. Sau vụ ñông ñầu vụ xuân cần nới rộng khoảng
cách cầu ñể mở rộng không gian trong tổ, bỏ chống rét kịp thời, ñưa thêm cầu không và tầng chân vào
những ñàn ong chúa không còn chỗ ñẻ. Ở thùng kế thì ñảo cầu, ñưa thêm cầu trống vào khu vực ong
chúa ñẻ trứng. Tăng cường che mát cho ñàn ong. Kiểm tra kịp thời, cắt bỏ lỗ tổ ong ñực và nhộng ong
ñực ở những ñàn không dùng làm giống. Vặt hết các mũ chúa (chỉ cần ñể lại những mũ chúa cần sử
dụng), rút ñổi những cầu nhộng cho ñàn yếu
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
129
- Sau khi thực hiện các biện pháp trên mà ñàn ong vẫn muốn chia ñàn thì quay mật sớm ñể có nhiều
lỗ tổ trống, giảm mật ñộ ong và ong sẽ tích cực thu mật giảm lượng ong nhàn rỗi. Quay mật là biện
pháp có hiệu quả nhất trong việc làm giảm khả năng chia ñàn tự nhiên của ñàn ong. Ngoài ra ở những
ñàn ong cố tình chia ñàn do ong nhiều, thùng ong chật, chúa già thì nên chủ ñộng chia ñàn và thay
chúa, không ñể tình trạng ong chia ñàn ra, lại bắt vào nhiều lần, gây tổn thất cho ñàn ong lại tốn công
lao ñộng.
• Biện pháp xử lí ñàn ong ñã chia ñàn tự nhiên.
- Ở ñàn gốc cần kiểm tra chỉ ñể lại một mũ chúa ñẹp sắp nở hoặc ñã nở, nếu có 2- 3 ong chúa ñã nở
mà ong chưa kịp chia tiếp thì cũng chỉ nên chọn ñể lại một con.
- Khi ong chia ñàn, ñợi cho chúng tụ hẳn rồi dùng nón bắt hoặc dùng cầu mật gạt ong bò vào cầu.
ðàn ong chia ñàn, sau khi bắt lại có thể ổn ñịnh ngay bằng cho 2 - 3 cầu lấy từ ñàn gốc ra. Cầu có cả
ong non và mật, phấn nhộng ñặt vào thùng ong, mang thùng ñến ñặt vào bất cứ vị trí nào (vì sau khi
chia chúng không về tổ cũ), rồi úp nón lên trên xà cầu rũ ong vào thùng, ñuổi ong ñậu lên cầu. Trong
trường hợp không có thùng ong, phải thả ong trở lại tổ cũ thì nên cắt hết mũ chúa và bỏ ong chúa ñã
nở, dùng khói thổi nhẹ rồi mới rũ ong vào bởi vì khi ong bay ra ñã có thời gian lâu, làm khác mùi chút
ít khi chúng ở ngoài trời.
- ðàn ong bắt trở lại làm ñàn mới nên cho xây tầng ngay vì ong rất tích cực xây bánh tổ mới khi rời tổ
cũ.
e. Ong bốc bay biện pháp ñề phòng và xử lí.
• Hiện tượng và tác hại do bốc bay.
Bốc bay là sự bỏ tổ ra ñi của toàn bộ ñàn ong. Ong bốc bay cũng là một bản tính ñã ñược hình
thành trong quá trình hoạt ñộng của ñàn ong ñể bảo tồn nòi giống khi gặp ñiều kiện bất lợi. Trước khi
bốc bay, ong chúa ngừng ñẻ 10 - 15 ngày, nhộng nở hết dần. Ong chúa ngừng ñẻ, bụng nhỏ lại bay ñi
dễ dàng. Mặt khác ong chúa ngừng ñẻ tạo cho ñàn ong không có con, không mất thức ăn nuôi ấu
trùng.
Trớc khi bốc bay vài ngày, ñàn ong ñi làm rất kém mặc dầu bên ngoài vẫn có nguồn hoa, có
trường hợp ong cắn phá nhộng lôi ra ngoài lỗ tổ. Mở thùng kiểm tra thấy ong ăn no mật và ñậu thành
chùm ở dưới cầu, thành thùng hoặc ván ngăn. Ong thường bốc bay vào những ngày tạnh ráo khoảng 8
- 16 giờ chủ yếu là 8 - 11 giờ, tuỳ theo thời tiết trong ngày. ðàn ong khi bốc bay cũng phát tín hiệu rất
huyên náo (mà người ta ví ầm ầm như ong vỡ tổ). Ong thợ ăn no mật chui ra khỏi tổ. Chúng bay vòng
vèo vài phút .Sau ñó ñàn ong ùn ùn kéo ra ở bất cứ chỗ nào bị hỏng trong thùng ong. Chúng bay qua
lại nhằng nhịt. Sau khi ong ñã ñược quá nửa thì ong chúa bay ra, ong cuốn lên cao dần. Khi ong thợ ñã
ra hết chúng bay cụm lại và bay cao dần như những ñám mây. Trong trường hợp ong chúa bị cắt cánh
hoặc bị nhốt, ong thợ có thể công ra trước cửa, sau ñó ong thợ vẫn cứ bay. Nếu không có ong chúa
bay theo, chúng quay trở lại, có trường hợp ñàn ong bỏ cả ong chúa ra ñi không trở lại. ðó là trường
hợp ong chúa quá kém, hoặc ong bay ra nhập với ñàn ong bốc bay khác. Có ong chúa bị rơi trước cửa
thùng bị kiến tha, gà mổ làm ong chúa chết, ñàn ong bị tàn lụi dần.
Trước khi bốc bay, ñàn ong thường có một bộ phận ong trinh sát ñi tìm nơi ở mới cho nên
khác với chia ñàn, khi bốc bay ong ít khi dừng chân mà bay thẳng, nhất là ong ở miền núi. Trong
những trường hợp ong bốc bay một cánh ñột nhiên như bị kích ñộng, bởi mới di chuyển bị vỡ cầu ong
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
130
hoặc bị bệnh nặng, bị kiến vống,sâu sáp phá nặng hoặc chúa tơ ñi giao phối ong bốc bay theo. Nếu
ñàn ong ñang bay bị mưa gió ñột ngột thì ong thường ñậu dừng chân ở các cành cây, hiên nhà. ðiểm
dừng chân này thường ở cao và thời gian không lâu. ðàn ong ñã bốc bay trong tổ thường không ñể lại
gì ngoài bánh tổ cũ, vết tích bệnh và dịch hại. Người ta cũng gặp những trường hợp ngoại lệ ñó là
những trường hợp ong ñột ngột bốc bay hoặc người nuôi ong viện cầu nhộng nhưng ong cắn phá ñể
bốc bay tiếp thì trong tổ vẫn còn phấn mật thậm chí có cả nhộng.
Ong bốc bay gây tổn thất rất lớn: ở nước ta trước 1960 ñàn ong nội chủ yếu nuôi trong ñõ và ở
mìên núi người ta nuôi ong theo cách “tự sinh tự diệt”, hàng năm ong bốc bay 80 - 90 %. Sau ñó nhờ
áp dụng tiến bộ kĩ thuật, chuyển ong nuôi trong thùng, áp dụng phương pháp quản lí mới, tỷ lệ ong
bốc bay giảm xuống còn 40 - 50%, ñến nay còn khoảng 10%.
• Nguyên nhân ong bốc bay.
+ Do ñàn ong bị thiếu thức ăn, khi nguồn mật phấn khan hiếm.
ðàn ong chỉ ổn ñịnh khi mà trong tổ có ñủ thức ăn dự trữ, có các thế hệ con nối tiếp nhau ra
ñời. Khi thiếu ăn ong thợ giảm khẩu phần thức ăn nuôi chúa, ong chúa ngừng ñẻ. Trong ñàn không có
mật, phấn, ấu trùng. ðó là ñiều kiện ñể ñàn ong không bị ràng buộc, luyến tiếc tổ, dễ bốc bay. Vì vậy
khi nguồn hoa ñã cạn, nếu người nuôi ong cố tình khai thác những giọt mật ít ỏi còn lại và cắt cả cầu
con làm cho ong không kịp xây bánh tổ mới ñổ mật, Sau khi thu mật, rất ít ñàn ong còn ở lại tổ. Ong
cũng bốc bay sau thời kì mưa kéo dài, ong không lấy ñược mật, người nuôi ong không cho ăn kịp thời
ñể bổ sung nguồn thức ăn bị thiếu. Tình trạng trên thường xảy ra ở sau vụ mật hè và vụ mật ñông.
+ Do ñàn ong bị bệnh và các ñịch hại khác quấy nhiễu.
Trong tự nhiên, ong bị bệnh thường bốc bay ñể lại mầm bệnh ở nơi ở cũ. Khi bay, ong bay
cao với vận tốc nhanh và làm kí sinh trên ong trưởng thành bị rơi rụng. ðó là phản ứng chống bệnh
của ñàn ong. Nuôi ong trong thùng, khi ong bị mắc bệnh, ấu trùng chết nhiều, ong không dọn vệ sinh
nổi, môi trường bị ô nhiễm, hôi thối, ong dễ bị bốc bay. Ong bốc bay do bệnh là nguyên nhân chủ yếu
ở các trại ong hiện nay. Ngoài ra ở những ñàn ong yếu dễ bị các ñịch hại tấn công như sâu ăn sáp phá
hại hoặc kiến, ong rừng uy hiếp và bị các loài ong mật khác cướp mật thì cũng dễ bỏ tổ bốc bay.
+ Ong bốc bay do những sai sót về kỹ thuật quản lí ñàn ong.
ðây là nguyên nhân hoàn toàn do chủ quan của người nuôi ong. Ngoài việc thu mật quá mức
và không cho ăn ñủ thức ăn, còn mắc các sai sót sau:
- ðặt ong không ñúng cách làm cho ong bị nắng nóng, hoặc bị lạnh thậm chí có trường hợp bị nóng
chảy sáp, vỡ cầu hoặc ấu trùng chết lạnh. ðặt ong gần lối ñi lại, gần nơi có chấn ñộng lớn, gần chuồng
trâu bò ñi lại làm ñổ thùng ong. Hoặc ñặt ñàn ong quá dầy, ñàn mạnh chèn ép ñàn yếu làm cho ñàn
ong mất ổn ñịnh phải bốc bay, thay ñổi chỗ ở.
- Di chuyển ong bị xô lệch cầu, vỡ bánh tổ không xử lí kịp thời. Kiểm tra quấy ñảo ong quá nhiều,
nhất là mùa khan hiếm thức ăn. Lấy nhiều cầu con ñể viện cho ñàn khác hoặc khi kiểm tra, thu mật ñể
cầu con phơi nắng chết ấu trùng, hoặc dùng khói quá nhiều hay ñặt ong cạnh bếp. Khi sang thùng thao
tác không tốt bị dập vỡ bánh tổ chết ấu trùng, sang thùng lúc khan hiếm nguồn hoa
- Không chú ý thay ong chúa, ñể bánh tổ ñen, chia ñàn ong quá mỏng, tạo nhiều chúa trong thời kì
hanh khô.
- ðể thùng ong quá bẩn, nứt nẻ ẩm ướt và nhất là thay thùng có mùi lạ gây chấn ñộng ñàn ong.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
131
+ Ong bốc bay do tập quán thay ñổi nơi cư trú.
Ở miền Bắc nước ta, ong thường có tập tính di chuyển chỗ ở. Khi trời bắt ñầu hanh khô ong ở
các hang ñá, hốc cây vùng cao giá rét bốc bay chuyển về vùng thấp ấm áp hơn. ðàn ong nuôi cũng
chịu ảnh hưởng của tập tính ñó. Những ñàn ong nuôi trong thùng mỏng, chống rét không tốt và nhất là
ñàn chúa tơ không có ấu trùng thì rất dễ bốc bay. ðặc biệt là vùng có nhiều người hánh ong, ñàn ong
trong thùng quản lí không tốt có thể bốc bay về ñõ.
• Các biện pháp ñề phòng và xử lí ong bốc bay
Ở nước ta ong thường bốc bay sau vụ mật (từ tháng 7 - 8) và sau vụ mật ñông, chỉ ở phía Bắc.
+ Dự ñoán ong bốc bay.
Trừ trường hợp ong bốc bay do bị chấn ñộng, bị bệnh hoặc bị ñịch hại (kiến, ong rừng) tấn
công còn khi bốc bay ong có sự chuẩn bị trước. Ong chúa giảm ñẻ, ong thợ sẽ ăn trứng chờ cho nhộng
nở hết là ñàn ong bốc bay. Do không phải nuôi ấu trùng nên ñàn ong ít ñi làm, ñặc biệt là ít ñi lấy
phấn. Thông thường ong ñi lấy phấn tích cực nhất vào khoảng 8h - 11h. ðể dự ñoán ong bốc bay ta có
thể kiểm tra những ñàn ít ñi làm bằng việc tính chỉ số biểu hiện của ñàn ong CPI. Khi chỉ số CPI < 2 là
ñàn ong có nguy cơ bốc bay.
Theo Punchihewa (1994) chỉ số ñàn ong ñược tính theo công thức sau:
Số ong ñi lấy phấn số ong ñi lấy phấn
CPI = x 100 x
Số ong bay về tổ thời gian quan sát (giây)
VD: vào lúc ong ñi lấy phấn nhiều nhất trong ngày, trong 60 giây có 12 ong bay về tổ, trong ñó có 3
ong mang phấn.
3 3
CPI = x x 100 = 1,25
12 60
+ Biện pháp ngăn ngừa ong bốc bay:
- Nuôi ñàn ong mạnh, giữ cho ñàn ong có ñủ thức ăn, chúa trẻ vì chúa trẻ và tốt sẽ không ngừng ñẻ
trong lúc thời tiết khắc nghiệt và nguồn hoa khan hiếm. Trong thời kì ong ổn ñịnh, cần ñiều chỉnh thế
ñàn ong ñồng ñều.
- Kết thúc quay mật ñúng lúc, sau khi quay mật vòng cuối nếu thiếu mật phải cho ong ăn bổ sung.
- ðề phòng và xử lý kịp thời bệnh ong, loại bỏ các cầu bị bệnh nặng không làm dập nát ấu trùng bệnh
và nhiễm mùi trong ñàn, thực hiện ñầy ñủ quy trình phòng chống bệnh và các ñịch hại khác nhất là
sâu phá tổ và ong rừng.
- ðặt ong ñúng cách trong ñó chú ý ñể ong yên tĩnh, không bị chấn ñộng, không va quệt ñổ vỡ, không
bị nhiều ong chèn ép và cạnh tranh nhau.
- Không kiểm tra, khuấy ñộng ñàn ong quá nhiều nhất là lúc nguồn hoa khan hiếm, chống nóng và
chống rét ñầy ñủ. Khi kiểm tra không ñể cầu con bị nắng về mùa hè, lạnh về mùa ñông Trong vụ
ñông phải chia ñàn sớm và kết thúc sớm không ñể quá nhiều chúa tơ, trong khi không có ñàn mạnh hỗ
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
132
trợ. Khi kiểm tra thấy hiện tượng ong muốn bay thì phải xử lý ngay như cho ăn, viện cầu mới có mật,
nhộng và ấu trùng tuổi lớn, bắt sâu ăn sáp và loại bớt cầu. Khi rút cầu ñi viện cho ñàn ong bốc bay
không nên lấy quá hai cầu một lúc trong một ñàn vì như vậy ñàn ñó lại bị bốc bay.
+ Xử lý ñàn ong bốc bay:
Khi phát hiện ñàn ong sắp bốc bay thì nên vít kín tất cả các khe hở trong thùng, ñậy nắp thật
kín (nếu không kín thì dùng ñất trát hoặc giấy lót cho kín ñể ong không chui ra ñược) vít cửa ra vào,
ñồng thời mở cửa sổ ñể ong khỏi chết ngạt. Nếu có một vài ñàn ong bốc bay có thể dùng nón bắt ong
trùm kín mặt thùng rồi mở to cửa cho ong nhanh chóng chui ra khỏi tổ, vào hết nón bắt ong. Nâng nón
lên cao khỏi mặt thùng ong, chú ý không ñể xổng ong chúa. Sau khi ong trong thùng ñã ra hết, thì
trùm vải màn buộc vào cành cây gần ñó cho ong tụ lên nón rồi vén màn ñuổi ong ở ngoài vào hết
trong màn và tụ lại trong lòng nón.
Nếu phát hiện chậm khi ong ñã ra nhiều (quá một nửa) thì có thể ong chúa ñã bay ra hoặc ong
bắt ñầu bay xa dần thường dùng ñất, ném ñón ñầu hoặc dùng nước té. Khi ong ñã tụ xuống chỗ nào
ñó, thì ñợi cho ong tụ thành chùm rồi mới dùng nón bắt trở lại. Sau ñó ñem treo vào chỗ mát, khoảng
6 - 7 giờ tối mới ổn ñịnh ong trở lại vì nếu ổn ñịnh ong sớm chúng có thể bốc bay tiếp. Thùng có ong
ñã bay cần ñậy kín hoặc mang vào trong nhà ñể chống ong cướp mật. ðàn có chúa non bốc bay, do
ñàn bốc bay khác kích ñộng cần kiểm tra, nếu có nhiều ấu trùng mà ñàn không bệnh thì gửi cầu sang
ñàn khác nhờ chúng ủ ấm và nuôi dưỡng.
Trước khi ổn ñịnh ong cần kiểm tra xử lý các cầu, rút bỏ các cầu bệnh, úp nón lên mặt cầu, rũ
ong vào thùng. ðến tối, lấy cầu nhộng từ ñàn khác viện cho ñàn bốc bay sớm ổn ñịnh.
Khi ong bay, vít cửa giữ lại thì phải ñể ñàn ong chỗ mát, dùng nước té mạnh vào cửa sổ cho
ong mát và dãn ra, ñến chiều tối kiểm tra ñưa ong vào cầu, Viện cầu nhộng và cho ăn ñể ong ổn ñịnh
trở lại. Sáng hôm sau cần quan sát tất cả các ñàn ong ñã bốc bay hoặc ñịnh bốc bay ñã xử lý, nếu thấy
chúng ñi làm mang phấn về là dấu hiệu tốt.
Ngoài các biện pháp trên, có thể cắt bớt ñầu 2 cánh ong chúa ñẻ khi không có ñiều kiện kiểm
tra thường xuyên.
f . Ong ăn cướp mật và biện pháp phòng chống
• Hiện tượng và tác hại.
Ong là loài côn trùng có khứu giác rất nhạy, khi nguồn thức ăn bị khan hiếm, cộng với việc
quản lý ñàn ong sơ xuất dễ gây hiện tượng ong cướp mật. Biểu hiện ñầu tiên là có một số ong thợ bay
vo ve xung quanh thùng ong hoặc ñõ ong ñể tìm ñường chui vào. Ở cửa tổ, ong thợ tăng cường cảnh
giới, lượng ong bảo vệ tăng lên gấp bội. Ong ñánh nhau chết rơi xuóng cửa thùng và có khi kéo dài
thành dây. Nhiều ong thợ ñi vào tổ bụng ñói, ñi ra bụng lại no. Lúc ñầu ñàn ong còn có khả năng
chống ñỡ, sau ñó ñàn ong kiệt sức, ong ăn cướp ra vào tự do và cướp ñến giọt mật cuối cùng. Khi bị
cướp nghiêm trọng, ñàn bị cướp thường bốc bay tìm chốn yên tĩnh ñể sinh sống. ðàn ong ñi cướp
thường là những ñàn mạnh, khi ñã ñi ăn cướp thì tạo thành phản xạ. Chúng quen với cách sống ñó và
cướp hết ñàn này sang ñàn khác, có khi những ñàn ñi cướp lại cướp lẫn nhau.
Khi trong trại ong có nhiều ñàn ñi cướp và bị cướp thì gây xáo ñộng, ñánh nhau hỗn loạn gây
phản ứng bốc bay dây truyền và do ñánh nhau chết nhiều, số lượng ong giảm rất nhanh. Ong không ra
ngoài làm việc mà luôn luôn ở nhà bảo vệ tổ, gây tổn thất rất lớn.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
133
Trong những năm gần ñây việc nuôi xen kẽ giữa 2 loài ong A.mellifera và A. cerana ñã gây
hiện tượng ăn cướp giữa 2 loài ong này. Khi nguồn hoa khan hiếm cả ong ngoại và ong nội có thể ăn
cướp lẫn nhau, với ong A.cerana trong vụ mật nếu gặp thời tiết xấu có thể lẻn vào ñàn ong A.mellifera
ñể cướp. Còn ong A.mellifera chỉ cướp khi nguồn hoa ñã cạn, nhưng cướp dai dẳng, ồ ạt. Ong
A.cerana không chống ñỡ nổi gây tổn thất lớn.
• Nguyên nhân gây tình trạng ong cướp mật.
Nói chung ong cướp mật là do chúng phát hiện ra mật ong hoặc xirô ñường trong lúc bên
ngoài thiếu nguồn hoa. Phát hiện ñó hấp dẫn, thúc ñẩy tính ăn cướp và chúng tìm ñến bất cứ nơi nào
có mật ñể lấy. Những nguyên nhân chính gây trộm cướp là:
- Cuối vụ mật, ong ñã vào thùng quay mà không chấm dứt quay mật. Ong không ñi lấy mật hoa mà
vào thùng quay mật, cướp lại mật trên thùng và các dụng cụ quay mật, hoặc mật ong sau khi quay
xong chưa chuyển ñi toả mùi xung quanh trại, làm cho ong phát hiện và tìm vào ñàn ong khác ñể cướp
mật.
- Cho ong ăn ban ngày, nước ñường, mật vương vãi ra xung quanh ñàn ong. Lượng mật trong các ñàn
ong không ñều. Một số ñàn yếu, ong thưa quân lại ñầy mật trong khi ñó ñàn ong mạnh lại ít mật. ðàn
bị cướp cũng thường là những ñàn có ong thợ ñẻ trứng, nhièu mật và ong thưa, ong già bảo vệ tổ
kém.
- Cầu ong loại ra, chưa rút hết mật hoặc sáp cắt vít nắp, sau vụ mật ñể không kín ñáo ong chui vào lấy
mật, hoặc ñường, mật ong dự trữ trong trại ñể ong lấy tự do từ ñó gây tính trộm cướp của ñàn ong.
- Ngoài ra còn do ñặt ong quá dầy, thế ñàn không ñồng ñều. Trong ñàn ong, lượng ong ñiều chỉnh
không kịp thời: ong ít, cầu nhiều, không bảo vệ ñược bánh tổ. Thùng ong và ñõ ong bị nứt nẻ ñể cửa
tổ ong quá rộng làm cho mùi mật ong bay ra ngoài, hoặc cho ong ăn cục bộ một số ñàn, kiểm tra quá
lâu và mở thùng ong ñể lâu không ñậy, trong lúc khan hiếm thức ăn.
- Trong trường hợp di chuyển, ong bị vỡ bánh tổ, mật vương vãi ra thùng, ñàn ong không ñủ thức ăn
thì khi ñến nơi ở mới dễ bị cướp mật
- Do nuôi 2 giống ong ở cùng một ñịa ñiểm ong ngoại sẽ ñi cướp mật của ong nội.
• Biện pháp phòng tránh và xử lí ong ăn cướp mật.
+ Biện pháp phòng tránh:
- Cuối vụ mật phải kết thúc quay mật sớm ñể ong có ñủ mật dự trữ, kiểm tra xem ñàn nào thiếu mật
cho ăn tiếp ngay cuối vụ hoa. ðợt quay mật cuối vụ và gặp ngày thời tiết xấu cần ñể lại mật cho ong.
Mật ong trên máy quay và các dụng cụ và mật ong vương vãi phải rửa thật sạch. Mật ong ñể lại trong
trại cần ñóng kín nắp, bảo quản trong phòng kín.
- Cho ong ăn vào ban ñêm và cho ăn ñều khắp với lượng thức ăn khác nhau khi bên ngoài ít hoa. Nếu
ong không ăn hết sáng sớm hôm sau phải rút máng ra và tối cho ăn trở lại không ñể xirô ñường ñổ
vương vãi.
- Cầu loại ra, cầu dự trữ cần cho vào thùng kín. Sáp loại cần nấu kịp thời.
- ðiều chỉnh thế ñàn ong ñồng ñều vào cuối vụ hoa, luôn luôn ñể ong ñậu kín cầu. ðặt ong thưa và
cân ñối với nguồn hoa. ðặc biệt chú ý ñặt ong A.cerana cách trại ñặt ong A.mellifera ít nhất là 4km –
5km khi bên ngoài cạn hoa. Mùa hoa khan hiếm cần vít bớt cửa ong ra vào, trát kín các khe hở của
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
134
thùng và ñõ, cửa sổ cũng luôn luôn ñóng kín, hạn chế kiểm tra ong, phải kiểm tra nhanh và ñậy kín
thùng, ngay sau khi kiểm tra xong.
+ Biện pháp xử lí khi ong bị cướp mật:
- Tìm ñàn ong ñi cướp mật bằng cách rắc một ít bột phấn trắng ở trước cửa ñàn ong bị cướp, nếu cửa
tổ ñàn khác cũng có bột phấn thì ñó là ñàn ñi cướp, hoặc quan sát ñường bay của ong ăn cướp cũng có
thể phát hiện ra ñàn ong ñi ăn cướp.
- Biện pháp có hiệu lực nhất là chuyển toàn bộ ñàn ong ñến nơi khác cách ñó ít nhất là 2 km. Nếu bị
ong A.mellifera cướp thì nhanh chóng chuyển chạy toàn bộ ñàn ong ñi nơi khác với khoảng cách xa
hơn vì ong cướp mật ñã có phản xạ cướp mật thì chỉ bằng cách chuyển ñi mới làm mất tính ăn cướp
của chúng lúc này. ðến tối nên cho ñàn ong ñã chuyển ăn no.
- Khi phát hiện ñàn ong mới bị cướp có thể vẩy dầu hoả, phun khói hoặc phun nước ñể xua ong ăn
cướp. Ở ñàn bị cướp cũng có thể ñóng cửa tổ, mở cửa sổ chuyển thùng ong vào chỗ mát rồi ñặt vào
ñấy một thùng rỗng có một số cầu không (còn dự trữ một ít mật, ong cướp ñến lấy hết số mật ñó
chúng coi như ñã hết). Tối cho cả trại ong ăn, ñặc biệt ñàn ñi cướp cho ăn thật no, thì cũng có thể khắc
phục tại chỗ tình trạng ong cướp mật.
g. Ong thợ ñẻ trứng và biện pháp xử lí.
• Hiện tượng và tác hại.
Một ñàn ong mất chúa ñược giới thiệu mũ chúa hoặc ong chúa sau vài ngày thấy ñàn ong lấy
nhiều phấn là ong chúa ñã ñẻ nhưng cũng có trường hợp ong thợ ñã ñẻ. Kiểm tra ñàn ong có ong thợ
ñẻ trứng thấy ong thợ có màu ñen bóng, ong rất dữ luôn sẵn sàng ñốt người. Ong thợ già và nhỏ con,
trên bánh tổ có nhiều mũ chúa cấp tạo nhưng không có ấu trùng. Lỗ tổ ong thợ có trứng nhưng trứng
nhỏ và có 2 - 3 trứng, hoặc có nhiều trứng trong một lỗ. Trứng ñẻ không ngay ngắn và không theo qui
luật ñẻ vòng xoắn ốc như ong chúa ñẻ. Do bụng ong thợ ngắn nên có khi trứng ñẻ bám cả lên thành lỗ
tổ Trong trường hợp ñàn ong thiếu lỗ tổ và ong chúa non mới ñẻ ,thỉnh thoảng cũng bắt gặp trường
hợp có 2 - 3 trứng trong một lỗ tổ nhưng trứng mập và ñẻ xuống ñáy lỗ tổ . Do ñó phải căn cứ cả 3
yếu tố: ñẻ nhiều trứng, trứng nhỏ và ñẻ lên thành lỗ tổ ñể phân biệt.
Ong thợ ñẻ trứng không thụ tinh nên nở ra toàn ong ñực. Ong thợ chỉ chọn và nuôi một ấu
trùng còn trứng và ấu trùng khác bị ong thợ gắp bỏ. Nhộng ong ñực do ong thợ ñẻ cũng vít nắp lồi lên,
lỗ chỗ khắp mặt bánh tổ. Ong ñực do ong thợ ñẻ khi vũ hoá, cơ thể rất nhỏ bé, do ñược ñẻ trong lỗ tổ
dành cho ong thợ. Lượng ong thợ ñẻ trứng trong một ñàn tăng dần và có khi rất lớn. Khi ñẻ trứng
chúng cũng ñược những con ong thợ khác nuôi dưỡng cho ăn như là ong chúa ñẻ.
ðàn ong có ong thợ ñẻ trứng, số lượng ong thợ giảm ñi nhanh. Ong thợ già cỗi ít ñi làm và rất
khó tiếp thu ong chúa khác. Khi giới thiệu ong chúa vào ñàn, ong thợ vẫn tiếp tục ñẻ cho ñến khi ong
chúa ñẻ lấn át ong thợ ñẻ và lỗ tổ trống không còn. Ong thợ non ra ñời và ong cũ chết dần thì ong thợ
mới ngừng ñẻ và ñàn ong phát triển bình thường trở lại.
Tác hại do ong thợ ñẻ trước hết là làm thế ñàn ong giảm sút, bánh tổ ñen, lỗ tổ nhỏ phần lớn
phải loại bỏ, làm cho ñàn ong suy yếu dễ mắc bệnh. Nếu duy trì lâu tình trạng ong thợ ñẻ thì khoảng
một vài tháng sau ñàn ong bị tiêu diệt.
Nguyên nhân ong thợ ñẻ trứng:
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
135
Ong thợ là ong cái. Trong ñiều kiện ñàn ong có ong chúa, do pheromon của ong chúa khống
chế làm buồng trứng của ong thợ kém phát triển. Khi mất chúa, ñàn ong không bị pheromon của ong
chúa khống chế. ðàn ong không có ấu trùng, ong thợ nhàn rỗi chúng sẽ mớm sữa chúa cho nhau làm
cho buồng trứng ong thợ phát triển. Khi ong thợ ñẻ trứng, cũng sản sinh ra pheromon kích thích ong
thợ khác ñẻ trứng nên lượng ong thợ ñẻ ñã tăng lên với số lượng lớn. Sau khi mất chúa ong thợ ñẻ
sớm hay muộn tuỳ thuộc vào tuổi ong thợ trong ñàn. Trong trường hợp ong thợ già, thì ñẻ trứng rất
sớm ví dụ khi sản xuất sữa chúa, ong thợ già mà không ñược bổ sung thì ngay khi còn nuôi mũ chúa
ong thợ ñã ñẻ. Ong thợ ñẻ sớm hay ñẻ muộn còn do giống ong. Ong A.cerana có buồng trứng lớn hơn
nhiều so với ong A.mellifera (
,
Sakagami và Akasira 1958) nên ong thợ A.cerana ñẻ sớm hơn ong
A.mellifera. Bình thường sau khi mất chúa nếu chỉ có ấu trùng lớn thì sau 7 - 10 ngày ong thợ sẽ ñẻ
trứng. Ong thợ già và nguồn hoa khan hiếm thì có thể ñẻ sớm hơn, có trường hợp chỉ vài ngày, ñã xuất
hiện ong thợ ñẻ trứng.
• ðề phòng và xử lí ong thợ ñẻ trứng.
+ ðề phòng ong thợ ñẻ trứng:
- Luôn luôn giữ ñàn ong có chúa, cần nâng cao chất lượng ong chúa. Khi chúa ñẻ kém hoặc dị tật cần
thay chúa kịp thời.
- Khi phát hiện mất ong chúa thì lập tức giới thiệu ong chúa mới. Nếu trong trại ong không có chúa
thì tìm một cầu có ấu trùng nhỏ (1 tuổi) ở ñàn khác ñổi vào cho ong xây mũ chúa và chọn mũ chúa tốt
ñể lại . Nếu ong chúa tạo thành kém thì cần thay trong vụ hoa tới.
- Không khai thác sữa chúa lâu trong một ñàn. ðàn ong giao phối mất chúa cần giới thiệu ong chúa
khác hoặc nhập ñàn sớm.
+ Xử lý ong thợ ñẻ trứng:
- Giới thiệu ngay ong chúa mới vì lúc ñầu ong thợ còn non và còn có nhộng ñàn ong còn mạnh . Nên
giới thiệu ong chúa ñã ñẻ vì ñàn ong cần có ong chúa tốt ñể có lượng pheromon khống chế ong thợ ñẻ,
sớm có ấu trùng, nhộng ñể ổn ñịnh ñàn ong và thay thế kịp lượng ong già chết.Trước khi giới thiệu
ong chúa có thể loại bớt cầu. Cầu bị ong thợ ñẻ trứng nếu chỉ có trứng ong thợ thì rút ra phơi nắng nhẹ
rồi ñổi cho ñàn khác ñể chúng loại bỏ giúp. Cầu có ấu trùng do ong thợ ñẻ, cần rũ ong, bỏ cầu vào
thùng quay mật, quay mạnh ñể loại bỏ ấu trùng. Cầu nhộng già thì dùng dao cắt vít nắp tổ, dỗ nhộng
ra, gắp bỏ những con còn lại rồi mới trả lại cho ñàn ong. Sau ñó viện cho nó 1- 2 cầu nhộng vít nắp và
cho ăn no ñể mật lấp ñầy các lỗ trống. Ong dọn ñến ñâu, ong chúa giới thiệu vào ñẻ ñến ñó sẽ chấm
dứt sớm ñược tình trạng ong thợ ñẻ; Nói chung khi ñã có ong thợ ñẻ thì ñàn ong rất khó giới thiệu ong
chúa nên phải giới thiệu bằng cách dùng lồng nhốt chúa.
ðàn ong ñã bị ong thợ ñẻ lâu và ong thợ già thì nên nhập ñàn , ngay cả khi có ñàn ong mạnh
có thể hỗ trợ ñược thì nhập ñàn ong thợ ñẻ trứng và chia ñàn khác vẫn có lợi hơn. Nên nhập ñàn ong
thợ ñẻ phân tán cho 2 - 3 ñàn khác và sau khi nhập cũng ñược xử lí trứng ấu trùng và nhộng ong ñực
như trên.
h. Nhập ong.
• Những trường hợp nhập ong, nguyên tắc nhập ong.
Nhập ong bao gồm nhập cả ñàn ong và nhập cầu ong. Nhập ñàn ong là mang toàn bộ ñàn ong
này (bao gồm cả cầu bánh tổ và ong trưởng thành) ñến sát nhập với ñàn ong khác và nó trở thành
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
136
thành viên trong thể thống nhất của ñàn ong khác. ðàn mang ñi nhập gọi là ñàn bị nhập (A). Nó bị xoá
tên ngay sau khi nhập ñàn, còn ñàn kia là ñàn ñược nhập (B) nó bao gồm 1 hoặc một số ñàn.
Nhập cầu ong là mang một vài cầu ong (có ong thợ và ong ñực, không có ong chúa) tách ra từ
một ñàn này ong mang ñến sát nhập với ñàn ong khác, và nó trở thành thành viên chính thức của ñàn
ong ñó. ðàn (A) bao gồm những ñàn ong bị mất chúa trong khi xử lí ong, ong chúa ñi giao phối, chúa
bị dị tật như què chân, xước cánh và ong chúa quá gìa không còn khả năng ñẻ trứng. ðàn ong quá yếu
không thể vượt ñông và qua hè. ðàn ong tạm tách ra ñể thay chúa và vận chuyển, nhập ong ñể lên kế,
nhập ñể ñiều chỉnh thế ñàn
Nhập ñàn ong phải ñảm bảo nguyên tắc nhập ñàn không chúa hoặc bộ phận không có chúa
vào ñàn có chúa, nhập ñàn yếu vào ñàn mạnh. Tuy rằng nhập ñàn ong là giảm ñi một số ñàn nhưng
lượng ong trong trại vẫn giữ nguyên. ðàn ong mạnh lên có thể thay ñổi ñược chất lượng và ñầu vụ
hoa có thể tăng thêm ñàn một cách thuận lợi. Nếu trong vụ mật thì việc nhập ong còn có ý nghĩa tăng
cường khả năng khai thác của ñàn ong và tăng năng suất mật.
• Các phương pháp nhập ñàn ong.
Pheromon do ong chúa tiết ra làm cho mỗi ñàn ong có mùi ñặc trưng. Ong thợ phân biệt mùi
của ñàn mình và ñàn khác ñể bảo vệ ñàn không cho bất cứ ong thợ nào ở ñàn khác ñến. Tính tự vệ của
ñàn ong tăng khi thức ăn khan hiếm và với những ñàn ong thợ già. Vì vậy nhập ong là phải xoá ñi
“ranh giới mùi” của 2 ñàn ong A- B làm cho chúng ñồng mùi, vô hiệu hoá khả năng phân biệt ñó là bí
quyết thành công trong phương pháp nhập ong.
Trước khi nhập ñàn cần kiểm tra lại ñàn ong A, vặt các mũ chúa tự nhiên hoặc bắt ong chúa
trước vài ba giờ ñề pheromon của chúa cũ hết ảnh hưởng ñến ñàn ong.
Khi nhập cầu thì cần tách các cầu và ong mang ñi nhập trước, ñưa ra ngoài ván ngăn, cách 3 -
4 cm. Sau ñó tìm kỹ ong chúa ở bộ phận còn lại, ñưa vào sát thành thùng ñể chúng không bò sang bộ
phận mang ñi nhập.
+ Phương pháp nhập gián tiếp.
Là phương pháp áp dụng phổ biến và ñược dùng trong tất cả các thời vụ, với loại hình thời tiết
khác nhau và là cách nhập ñơn giản, an toàn.
- Nhập ngoài ván ngăn:
Khoảng 4 - 6 giờ chiều tại ñàn A dịch các cầu ong ra khỏi thành thùng 2 - 3 cm ñể ong rời
thành thùng ñậu cả lên cầu. Nếu ong nhiều, cầu ít thì mượn một cầu mật ñưa vào ñể ong ñủ chỗ bám.
Nếu ñàn (A) lớn hoặc có ong thợ ñẻ cần nhập vào một số ñàn (B) thì cũng tách ra từng nhóm cách
nhau khoảng 2 - 3 cm. Khi trời sẩm tối từ 8 h - 8 h 30
nếu nhập cả ñàn thì ñưa ñàn A ñến cạnh ñàn B
chuyển cầu và ván ngăn ñàn A ñặt nhẹ nhàng ngoài ván ngăn của ñàn B, cách ván ngăn khoảng 1cm
ñể ñàn ong yên tĩnh. ðến khoảng 8 - 9 h sáng hôm sau rút ván ngăn ổn ñịnh 2 phần làm một.
- Nhập ong bằng giấy báo:
Dùng que chọc thủng tờ giấy báo (chọc kiểu châm kim) khoảng 1cm
2
/ lỗ, phủ tờ giấy này lên
trên cầu của ñàn B. ðến tối mang ong ở ñàn A tới ñặt cạnh cầu của ñàn B ,ở ngoài ván ngăn và ñể ong
tự cắn giấy báo làm quen với nhau, chiều hôm sau có thể ổn ñịnh.
Nhập bằng giấy báo còn sử dụng khi nhập ong A.mellifera ở thùng kế, người ta ñặt tờ giấy lên
miệng thùng ở ñàn (B) rồi chồng ñàn (A) lên trên. Chúng sẽ quen hơi dần khi giấy báo bị cắn. Cũng
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
137
có thể thay giấy báo bằng lưới ngăn côn trùng ñặt trên miệng thùng ñể ngăn cách 2 ñàn cho chúng
quen hơi dần.
+ Phương pháp nhập ñàn trực tiếp
Phương pháp nhập ong trực tiếp ñược áp dụng trong lúc nguồn hoa phong phú, ong thợ non
nhiều, ñàn ong ít cảnh giác và áp dụng chủ yếu ñể nhập thêm cầu trong vụ mật hoặc bổ sung ong non
cho ñàn nuôi chúa bằng cách ñưa bộ phận ong ở ñàn (A) ñặt cạnh ñàn (B), phun khói và rút ván ngăn
ñể cho 2 bộ phận ong nhập vào nhau.
Chú ý: Khi nhập ong xong, trong tất cả các phương pháp ñều phải kiểm tra ong chúa xem có
bị vây không . Khi quan sát thấy ong thợ ñánh nhau trong thùng, ong ồn ào thì phải phun khói ñể can
thiệp.
Nhập ong bổ sung thì nếu ñể tại chỗ ong sẽ bay về ñàn cũ, cho nên sau khi nhập phải chuyển ñi nơi
khác hoặc lấy ong ở nơi khác về nhập. Nếu không, phải nhập cầu có nhiều ong non và nhộng già. Ong
ñi làm việc bay về tổ cũ thì ñàn ñược nhập vẫn còn lượng ong non và nhộng sắp vũ hoá.
k Cho ong ăn thêm và uống nước.
• Mục ñích
Ong sống nhờ nguồn thức ăn tự nhiên là mật và phấn lấy từ các cây nguồn mật. Mật ong là
nguồn cung cấp hyñratcacbon nuôi ong. Ong cần mật ngay từ khi nuôi ấu trùng. Khi ong trưởng
thành, mật cung cấp năng lượng cho mọi hoạt ñộng của chúng. Trước khi bay ñi làm việc ong cần ăn
mật ñể có năng lượng. Khi thụ phấn, mật còn giúp cho ong dính các hạt phấn hoa ñể gom vào giỏ
phấn. Khi xây tầng ong cũng cần nhiều mật ñể có năng lượng tiết sáp làm mềm sáp và xây tầng.
Ngoài ra mật dự trữ còn giúp cho ñàn ong qua ñông, bảo vệ bánh tổ, chống dịch hại nhất là loại ký
sinh và sâu ăn sáp. Thiếu mật, mọi hoạt ñộng của ong bị ngừng trệ. Mùa ñông thiếu mật có thể ong bị
chết ñói cả ñàn.
Phấn hoa cung cấp protein, các vitamin và các khoáng chất cho ñàn ong. Phấn hoa là thức ăn
của ấu trùng tuổi lớn. Ong trưởng thành 5 - 10 ngày tuổi cần rất nhiều phấn hoa ñể phát triển các
tuyến. Ong non thiếu phấn hoa tuổi thọ giảm.
Cây nguồn mật cung cấp mật và phấn theo thời vụ, có lúc nguồn mật phấn dư thừa và có lúc
lại thiếu nghiêm trọng. ðàn ong cũng ñã có bản năng lấy mật dự trữ nhưng lượng dự trữ cũng chỉ có
hạn. Nuôi ong là phải ñảm bảo nguồn thức ăn trong ñàn ong.Khi thiếu mật phấn phải cho ong ăn thêm
ñể duy trì sự phát triển của ñàn ong ñảm bảo chất lượng giống ong ñể phát triển sản xuất.
• Thức ăn thay thế và cách cho ăn.
Thức ăn thay mật chủ yếu là ñường kính trắng, mật ong dự trữ, nước mía tươi, nước quả.
Không cho ăn ñường phèn và mật mía vì khi sản xuất người ta hoà nước vôi và ñường ñen dễ làm
hỏng bánh tổ, ong dễ mắc bệnh ỉa chảy do tiêu hoá kém.
+ Cách cho ăn: Hiện nay người ta cho ăn chủ yếu bằng máng ñặt ở dưới hoặc ở trên cầu. Máng cho
ong ăn phải ñặt thăng bằng, nên thả một số lá hoặc que củi khô ñể ong khỏi chết ñuối. Khi không có
máng có thể dùng ñĩa mỏng, ñặt ngoài ván ngăn cho ong ăn.
- Cho ăn bổ sung: nhằm bổ sung lượng mật thiếu lúc ít hoặc không có hoa mà không nhằm mục ñích
phát triển ñàn ong, chủ yếu là qua hè và qua ñông (tháng 7 - 8, tháng 12 - 2 ở phía Bắc và tháng 7 - 9
ở các tỉnh phía Nam). Khi cho ong ăn bổ sung cần pha ñường ñặc theo tỉ lệ 1,5 – 2 ñường + 1 nước
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
138
tính theo trọng lượng. Cho ăn 1 - 2 tối liền và mỗi tối cho ăn 0,5 – 0,7 kg ñường cho một ñàn ong 5 -
6 cầu. Có thể cho ăn 2 - 3 lần một tối nếu máng cho ăn nhỏ. Cho ăn ñến khi có mật vít nắp và cần ñiều
chỉnh lượng nước ñường ở các ñàn ñể có mật dự trữ ñều nhau, nhằm phòng tránh ñịch hại và ong ăn
cướp, không kích thích chúa ñẻ trong khi bên ngoài khan hiếm phấn.
- Cho ăn kích thích: là cách cho ăn khi bên ngoài có nguồn hoa duy trì nhằm thúc ñẩy ong chúa ñẻ,
kích thích ong thợ xây tầng, tạo ong ñực, nuôi ong chúa Cách cho ăn kích thích là pha nước ñường
loãng hơn:1 ñường + 1 nước (hoặc nồng ñộ 40 – 50%) (không nên pha loãng hơn ñể ong tốn năng
lượng làm ñặc trở lại). Cho ăn nhiều tối, có thể cho ăn 2 - 3 tối nghỉ 2 - 3 tối rồi lại cho ăn 2 - 3 tối
nữa, mỗi tối 0,2 – 0,3 kg ñường cho ñàn 4 - 5 cầu. Cho ăn kích thích sẽ thúc ñẩy ong chúa ñẻ và ong ñi
làm việc thường thực hiện sớm, trước vụ mật chính nên không ảnh hưởng ñến chất lượng mật.
Khi cho ăn cần chú ý:
- Rút cầu, nhập ñàn ong quá yếu và bị bệnh sau vụ mật ñể tiết kiệm thức ăn.
- Cho ăn ban ñêm ñến sáng kiểm tra, ñàn nào không ăn hết phải rút máng ñem cất nước ñường. Nước
ñường còn lại phải lọc sạch ñun sôi lại rồi mới cho ăn tiếp.
- Cho ăn theo nguyên tắc: ñàn mạnh, thiếu mật cho ăn nhiều. ðàn yếu, thiếu ít mật cho ăn ít ñể ñảm
bảo ong ăn hết thức ăn.
- Vụ ñông nên cho ăn sớm và những ngày rét ñậm không nên cho ong ăn.
- ðàn bệnh phải dùng máng riêng và cho ăn sau cùng.
- Thức ăn vương vãi và máng cho ăn phải rửa sạch ñề phòng ong cướp mật.
Thức ăn thay phấn hoa.
ðối với ong A.cerana các thức ăn thay phấn hoa tự nhiên như bột ñỗ tương khử béo, sữa bột,
lòng ñỏ trứng gà, men bia cho ong ăn hiện nay chưa có kết quả rõ. Vì vậy người ta thường dùng phấn
hoa tự nhiên khai thác từ ñàn ong A.mellifera ñể cho ăn. Những người nuôi ong A.mellifera thường
dùng phấn tươi trộn với ñường ñể dự trữ cho ong ăn khi thiếu phấn ñó là loại phấn tốt. Khi mua phấn
khô cho ong ăn thì phải chọn loại phấn hoa không bị mốc, có mùi thơm ñặc trưng và thời gian dự trữ
chưa quá 6 tháng. Phấn ñược nghiền nhỏ, rây rồi pha trong xirô ñường hoặc mật (khoảng 0,3 - 0,4 lit
xirô + 30 g phấn) khuấy ñều ñổ vào máng cho ong ăn. Có thể pha phấn hoa ở dạng hơi nhão rồi ñổ lên
mặt cầu. Nếu trại ong riêng biệt có thể ñặt máng phấn khô cho ong lấy như nguồn hoa tự nhiên.
Khi cho ăn phấn hoa cần cho ăn liên tục cách 4 - 5 ngày cho ăn một lần cho ñến khi có phấn
hoa tự nhiên, vì nếu cho ăn 1 - 3 lần ong chúa sẽ ñẻ mạnh. ðến khi có ấu trùng, thiếu phấn, ong lại bỏ
không nuôi hoặc ăn ấu trùng ñể lấy protein nuôi ong chúa và nuôi ấu trùng khác.
Cho ong ăn thể hiện cách nuôi ong tiên tiến nhằm duy trì thế ñàn ong ñến vụ mật, song muốn
tiết kiệm thức ăn tốt nhất vẫn là chuyển ñàn ong theo hoa. Thức ăn tự nhiên vẫn thích hợp hơn, ñàn
ong duy trì và phát triển tốt hơn so với cho ong ăn bằng thức ăn nhân tạo nhất là phấn hoa.
• Cho ong uống nước.
Nước rất cần cho ñàn ong, ñể pha loãng mật nuôi ấu trùng, làm mát tổ khi trời oi bức. Thiếu
nước hoặc nguồn nước ở xa ong tốn rất nhiều lao ñộng ñể lấy nước. Người ta thấy rằng trong những
ngày nóng bức ong ñi lấy nước tăng lên rất nhiều. Khi thiếu nước ong còn lấy cả nguồn nước bẩn, nư-
ớc ở trên xác ñộng vật thực vật chết làm ô nhiễm môi trường trong tổ. Vì vậy khi thiếu nước cần cho
ong uống nước.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
139
- Trại ong cố ñịnh nên xây bể cạn ở góc trại (khoảng 3 - 4 m
2
) rồi ñổ nước sạch săm sắp cho ong lấy
vào các ngày nắng nóng, hanh
- Dùng máng nước thả phao ñặt ở ngoài trời cho ong lấy nước.
- Khi di chuyển có thể cho cầu không nhúng nước rồi ñặt vào giữa ñàn ong lúc trời nắng.
Nói chung trong các vụ mật thì thường lượng nước bốc hơi trong mật ñủ cung cấp cho ong
nên không cần cho ong uống nước. Có thể ñiều chỉnh nồng ñộ ñường cho ong ăn khi gặp ẩm ñộ
không khí thấp cũng là cách cung cấp thêm nước cho ong.
m. Di chuyển ñàn ong.
Di chuyển ñàn ong là rời ñàn ong từ nơi này ñến nơi khác cách xa ít nhất 3 km ñể ong không
về chỗ cũ.
• Mục ñích di chuyển ñàn ong.
Ở nước ta tuy cây nguồn mật nuôi ong rất phong phú, nhưng cây nguồn mật chính nhất là cây
nguồn mật ñặc sản như nhãn, vải, chôm chôm thì chỉ có ở một số nơi. Mặt khác nhiều vùng nuôi
ong, cây nguồn mật hỗ trợ và nguồn phấn chưa khép kín quanh năm. Những vụ thiếu hoa không thể
duy trì ñược ñàn ong tại chỗ với số lượng ñàn ong lớn , hoặc không thể cung cấp ñủ thức ăn phải nuôi
nhân tạo. Ngoài ra trong trại ong có sự cố như có dịch bệnh, phun thuốc sâu , cũng cần di chuyển ñàn
ong ñi nơi khác. Như vậy di chuyển ñàn ong nhằm mục ñích:
- Tranh thủ ưu thế về nguồn hoa và thời tiết ở vùng ong ñến ñể phát triển ñàn ong.
- Tăng thêm sản lượng mật nhất là loại mật quý hiếm, và tiêu thụ mật ong tại nơi khai thác mật.
- Tránh những biến cố xảy ra trong trại ong: phòng bệnh, xử lí ong cướp mật.
- Di chuyển ñể thuận lợi cho chia ñàn, giao phối và cách li ong chúa.
• Nuôi ong di chuyển là phương thức nuôi ong tiên tiến.
Ở các nước có nghề nuôi ong phát triển, di chuyển ñàn ong là phương thức nuôi ong chủ yếu,
phổ biến và có hiệu quả. Trung Quốc là nơi nuôi ong A.cerana có số lượng lớn và sớm cải tiến ph-
ương pháp chăn nuôi. Sau khi chuyển sang thùng có cầu di ñộng, nhiều người nuôi ong ñã di chuyển
ñàn ong xa tới vài nghìn cây số (Vương cộng Hoà 1960). Ở nước ta từ khi ñưa ong vào nuôi trong
thùng có cầu di ñộng, thì việc di chuyển ñàn ong ñược tiến hành sớm. Ở nước ta hiện nay tồn tại 3
hình thức:
- Nuôi cố ñịnh hoàn toàn với người nuôi ít ñàn ong chủ yếu ở miền núi và vùng có hoa quanh năm
như hoa dừa Bến Tre , chỉ chuyển ong khi ñàn ong bị nhiễm thuốc trừ sâu.
- Chuyển ong gần ñi thu mật hoặc qua hè, qua ñông sau ñó lại trở về ñặt ong tại trại. Cách nuôi ong
này rất phổ biến ở các tỉnh ñồng bằng, trung du Bắc bộ. Nó phù hợp với qui mô nuôi ong nhỏ và vừa,
phương tiện vận chuyển thô sơ, hiệu quả cao.
- Nuôi ong di chuyển thường xuyên áp dụng ở các trại nuôi ong lớn hoặc các nhóm nuôi ong chuyên
nghiệp hợp tác với nhau ñể chung phương tiện vận chuyển ong. Khi chuyển ong phải có tính toán các
chuyến ñi và sử dụng hợp lí các phương tiện ñể có hiệu quả kinh tế cao. Trải qua quá trình nuôi ong
các trại ong thuộc doanh nghiệp nhà nước ñã rút ñược kinh nghiệm ñi các vụ hoa và hình thành chu
trình di chuyển gọi là “bước ñi hoa” quyết ñịnh việc thành bại của người nuôi ong trong năm. Nó
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
140
không phải thường xuyên cố ñịnh cho mọi năm mà phải thay ñổi một cách rất linh hoạt tuỳ theo diễn
biến thời tiết và nguồn hoa trong năm ñó.
• Những việc cần làm khi vận chuyển ñàn ong.
- Chuẩn bị: Trước hết tìm nơi chuyển ong ñến, nơi này nếu ñã thường xuyên mang ong ñến cũng phải
thăm lại nguồn hoa và chuẩn bị nơi ñặt ong, xem xét ñàn ong ñã có ở ñó nhất là tình hình bệnh, tình
hình phun thuốc trừ sâu, không chuyển ong ñến vùng có tập quán sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Chuẩn bị dụng cụ nuôi ong nhất là dụng cụ thu mật, tầng chân , dụng cụ sinh hoạt cho người.
- ðóng gói ñàn ong: ñàn ong không dùng thước thì chuẩn bị các nêm gỗ ñể chèn 2 ñầu cầu.
Kích thước nêm dầy 1cm, rộng 1,5 cm dài 3 cm ñóng ñinh ở ñoạn giữa 1m và 2 cm.
Trước khi ñóng gói phải kiểm tra, quay bớt mật ở những ñàn ong quá nhiều mật ñể tránh cầu
bị vỡ và ong bị ngạt. Các cầu ong ngắn hụt, phải gia cố thêm như ñóng ñinh hoặc gỗ, sửa hoặc thay
các thùng ong bị nứt nẻ, làm bằng gỗ xấu có thể bị vỡ dọc ñường.
ðóng gói trước một ngày trước khi di chuyển ñể ong gắn sáp chặt giữa nêm hoặc thước với xà
cầu. ðàn ong ñông hoặc vận chuyển ñường dài phải cho khung cầu vào giữa. Thùng nhỏ, ong ñông
thì chia làm 2 thùng ñánh dấu ñến nơi mới nhập lại.
* Có nhiều cách ñóng gói ong: Cách ñóng gói nhanh chóng và an toàn hiện nay là dùng một
cái thước tre dài ñúng bằng thước ong, 2 ñầu thước buộc dây thép. Ở thành thùng phía ñặt cầu ong,
ñóng 2 cái ñinh 2 cm ở hai ñầu. Khi ñóng gói tỳ 2 ñầu thước tre xuống dưới, 2 thước gối ñầu cầu, ñẩy
ván ngăn rồi quấn dây thép vào ñinh buộc cố ñịnh, làm như vậy cầu ñược giữ chặt và có dây thép nên
không bị nẩy lên trên.
Trước khi ñóng gói thì cần bỏ máng, thước và vật chống rét ra ngoài. Khung cầu và ván ngăn
chèn chặt với cầu ong.
Thời gian di chuyển: Vào buổi tối khi ong ñã về hết tổ và mở sổ ñể thông gió.
Các phương tiện vận chuyển ong: nếu ñi gần và ít ong thì nên dùng xe ñạp, xe máy, thuyền
hoặc gánh bộ (không nên dùng các xe do gia súc kéo). ði xa thì dùng ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ. Các
phương tiện chở ong không chở các chất ñộc hoá học trước ñó. Nơi xếp ong phải thông thoáng.
Xếp ong trên các phương tiện nên xếp dọc, cầu ong song song với thành xe. Cửa sổ quay ra
phía trước ñể gió thổi vào cửa sổ. ðàn ong mạnh và những thùng kém thông thoáng thì ñặt lên trên và
ñặt ra ngoài. Khi xếp dùng thùng nhỏ, chân cọc thùng chèn các thùng ong cho thật chặt. Nói chung khi
bốc xếp và ñặt ong ở trên phương tiện phải giữ cầu vuông góc với mặt ñất. Không ñược ñể bất cứ việc
gì chèn kín cửa sổ thùng ong trên xe.
- Quản lí ñàn ong trên ñường vận chuyển.
Trên ñường ñi ong cần tránh các ổ gà, xe chạy càng êm thì càng an toàn. Nếu phải chuyển ong
trên ñường khoảng 4 - 5 ngày thì ban ngày nên dừng giữa ñường và bốc ong chuyển xuống 1 lần, mở
cửa cho ong bài tiết, lấy nước và người nuôi ong xử lí các sự cố ñến tối mới ñi tiếp.
Khi tới nơi cần chuyển ong ngay vào ñịa ñiểm, ñặt rải ong ra ñể ong ñược mát. Nếu có thể ñặt
ong ngay vào vị trí trong ñêm ñó càng tốt.
Khi ñặt ong xong thì mở cửa, cần chú ý mở xen kẽ, không mở cửa các ñàn ñặt liền nhau cùng
một lúc. Những thùng ong nghi bị sập cầu mật chảy ra thì nên kiểm tra sắp xếp lại bánh tổ. Sau khi ñặt
ong, cần kê thùng cho bằng phẳng, tối hôm sau cho ăn ñể ong nhanh ổn ñịnh.
Trường ðại học nông nghiệp Hà Nội Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………
141
n. Quản lý ong tr−íc vụ mật.
+ Xác ñịnh thời kì chuẩn bị lực lượng ong lấy mật.
ðể thu ñược nhiều mật, người nuôi ong cần xác ñịnh ñúng thời gian có nguồn mật, phấn và
thời gian chuẩn bị lực lượng ong, sao cho bước vào vụ mật có nhiều ong trẻ, khỏe mới lấy ñược nhiều
mật. Nếu bước vào vụ mật, ñàn ñông quân, song toàn ong già (30- 40 ngày tuổi) sẽ lấy ñược ít mật rồi
chết hoặc ñàn nhiều ong non mới nở mà vụ mật chính ngắn sẽ không kịp thu hoạch hoặc thu hoạch
ñược ít mật ñã hết vụ. ðể xác ñịnh ñúng thời kì chuẩn bị lực lượng ñàn ong khai thác, người ta dựa
vào ñặc ñiểm sinh học của ong.
Thường vào vụ mật chính tuổi thọ trung bình của ong thợ từ 35 - 40 ngày. Lực lượng ong thu
hoạch gồm các con ong làm việc ñược từ 5 ngày trở nên. Sau khi vũ hoá, ong làm việc trong tổ, sau 4
ngày mới ra ngoài. Như vậy bước vào vụ mật, ong già nhất cũng phải dưới 30 ngày tuổi và trước khi
kết thúc vụ mật, ong non nhất phải từ 9 ngày tuổi trở nên mới ñược tính vào lực lượng thu hoạch mật.
Nếu tính từ giai ñoạn trứng ñến khi vũ hóa là 21 ngày nữa thì lực lượng thu hoạch gồm những con ong
ñược ñẻ trong khoảng thời gian kể từ trước khi bắt ñầu vụ mật 51 ngày ñến trước khi kết thúc vụ mật
30 ngày. Những con ong ñẻ trước hoặc sau thời kì này sẽ chết trước vụ mật hoặc hết mật không kịp ñi
làm. Khoảng thời gian trên ñược gọi là thời gian chuẩn bị lực lượng ong thu hoạch.
1 2 3 4
28/1 18/2
11/3
1/4
20/3
10/4
ngµy
Thêi kú chuÈn bÞ lùc l−îng
Vô mËt