ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Phục vụ người nghèo và
Ngân hàng Phát triển nhà ở và cơ sở hạ tầng đồng bằng sông Cửu Long.
Hệ thống ngân hàng quốc doanh hoạt động rộng khắp trên cả nước với 238 chi
nhánh tại các tỉnh, thành phố và hơn 1000 chi nhánh cấp 3 trực thuộc tại khắp các
vùng dân cư. Ngân hàng thương mại quốc doanh thực sự trở thành chỗ dựa quan
trọng, chủ yếu của các thành phần kinh tế, qua đó đóng góp quan trọng vào tăng
trưỏng ổn định kinh tế trong thời kì đổi mới. Các ngân hàng thương mại cổ phần
cũng là những thành phần đang lớn mạnh. Vào thời điểm đầu thập kỉ 1990, cả nước
có 15 ngân hàng cổ phần, cho đến nay, các ngân hàng cổ phần đã và đang phát triển
một cách nhanh chóng. Về số lượng đã có 48 ngân hàng cổ phần (trong đó có 32
ngân hàng cổ phần đô thị, 16 ngân hàng cổ phần nông thôn).
Thực hiện chính sách mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng, Nhà nước cũng đã cho
phép ngân hàng nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay trên lãnh thổ
Việt Nam có hơn 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài.
Bên cạnh các tổ chức mang tính chính thức, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
phải kể đến hoạt động tín dụng nhân dân. Hiện nay hệ thống này vẫn đang được
triển khai và phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Ngoài ra hoạt động của các
tổ chức không chuyên ngành ngân hàng, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường vẫn có những hoạt động mang tính ngân hàng, đó là các tổ chức kinh tế
thuộc các bộ các ngành, các cơ quan, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội ví dụ
như : hệ thống kho bạc nhà nước,Tổng cục Đầu tư và Phát triển, Bộ lao động
Thương binh và Xã hội, Tổng cục Bưu điện, Hợp tác xã, Hội phụ nữ, Hội nông
dân
Với một cơ cấu tổ chức đa dạng và vẫn đang mở rộng như vậy, hệ thống ngân
hàng Việt Nam đang từng bước thể hiện sự lớn mạnh về số lượng, phần nào chứng
tỏ vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tuy vậy, để đánh giá và nhận dịnh
đúng đắn, chúng ta cần xem xét các mặt về chất lượng hoạt động của hệ thống này.
- Về quy mô vốn tự có:
Vốn của ngân hàng là một trong những điều kiện tiền đề cho hoạt động, phát triển
và thể hiện tính cạnh tranh của ngân hàng thương mại. Với một khoản vốn lớn, ngân
hàng có khả năng cung cấp tín dụng lớn hơn, làm giảm bớt rủi ro và là một yếu tố
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
để ngân hàng có thể cải tiến công nghệ, mở rộng hoạt động và tăng khả năng cung
cấp dịch vụ trên thị trường.
Tuy vậy lượng vốn tự có của hệ thống ngân hàng thương mại ViệtNam cũng hầu hết
không đáp ứng được yêu cầu. Các ngân hàng thương mại quốc doanh được Nhà
nước cấp vốn điều lệ từ ngân sách: trong đó Ngân hàng Ngoại thương (NHNT),
Ngân hàng Công thương ( NHCT), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (NHĐT&PT),
mỗi ngân hàng được cấp 1100 tỷ đồng; riêng Ngân hàng NN&PTNT được cấp vốn
lớn nhất nhưng cũng chỉ có 2200 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 1999, vốn tự có đ• bổ
sung của các NHTMQD cũng mới chỉ lên tới 2063 tỷ đồng ở NHNT, 1637 tỷ đồng
ở NHCT, 1892 tỷ đồng ở NHĐT&PT và 2755 tỷ đồng ở NHNN&PTNT. Thử so
sánh với số tài sản của một số ngân hàng trên thế giới vào thời điểm năm 1995:
Deutsche Bank (Đức) 502.3 tỷ USD; Sumitomo Bank (Nhật) 498.9 tỷ USD ; Credit
Lyonnais (Pháp) 337.6 tỷ USD; hay Chase Manhattan Bank (Mỹ) 333.8 tỷ USD
thì mới thấy sự nhỏ bé và khoảng cách rất xa của các ngân hàng thương mại Việt
Nam. Ngay cả so sánh với khu vực thì ngân hàng thương mại lớn nhất của Việt
Nam (khoảng 170 triệu USD) chỉ có vốn đạt khoảng 1/5 mức của các ngân hàng của
các nước trong khu vực.
Xét về khu vực ngân hàng cổ phần Việt Nam thì tình hình còn thiếu khả quan
hơn. Theo đánh giá hiện nay thì có khoảng 11 ngân hàng cổ phần chưa có đủ khả
năng tăng vốn điều lệ theo yêu cầu. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cổ
phần chưa thể hiện hiệu quả cao, do vậy việc tăng vốn rất khó khăn.
Với quy mô vốn thấp và tỷ lệ an toàn vốn dưới mức thông lệ quốc tế như hiện nay
của các ngân hàng thương mại Việt Nam, chúng ta đã bị hạn chế về khả năng tín
dụng, tài trợ cho hoạt động kinh doanh cũng gặp nhiều cản trở, khó mở rộng phạm
vi hoạt động và đổi mới công nghệ ngân hàng, và càng khó hơn trong việc cạnh
tranh với các ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
- Về vấn đề nợ quá hạn
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương
mại, là nguồn chủ yếu đem lại lợi nhuận. Nghiệp vụ này luôn phải gắn với rủi ro tín
dụng, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn của ngân hàng. Trong hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam, tỷ lệ nợ quá hạn là một vấn đề khá nghiêm trọng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Theo tính toán của WB, nợ khó đòi phải xử lý theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam của
hệ thống ngân hàng đạt trên 1 tỷ USD. Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế
thì số nợ khó đòi lên tới 3-4 tỷ USD. Số liệu từ nguồn khác cho thấy tỷ lệ nợ xấu
trong tổng dư nợ trong toàn bộ hệ thống ngân hàng lên tới 12.7% (mức an toàn là
dưới 5%).
Các nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng gia tăng trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam có thể tóm lược là: một số khoản nợ từ thời bao cấp
không chi trả được; hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đi vay vẫn chưa cải
thiện được nhiều; nhiều doanh nghiệp vẫn được cho vay theo chỉ thị chỉ đạo mà
không tính toán đến rủi ro tín dụng, đến điều kiện hoàn vốn và có lãi, các doanh
nghiệp này lại chiếm một tỷ lệ vốn vay rất lớn; bản thân hoạt động của ngân hàng
còn nhiều yếu kém, bất cập, một số cán bộ ngân hàng trình độ chưa đáp ứng yêu
cầu, một số khác bị biến chất, gây các vụ thiệt hại lớn.
- Về hiệu quả huy động vốn và tín dụng
Với các chức năng cơ bản của mình, huy động vốn và hoạt động tín dụng là
những nghiệp vụ nền tảng của một ngân hàng thương mại. Qua đó, ngân hàng huy
động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đem cho vay các đối tác khác có nhu cầu về
vốn. Với hoạt động này, các nguồn vốn dư thừa sẽ được tận dụng và sử dụng hiệu
quả hơn, những nơi cần đầu tư cũng có được nguồn lực cần thiết để đạt đến sự phát
triển tối ưu.
Năm 1995, các ngân hàng thương mại quốc doanh huy động được 31700 tỷ VNĐ
(kể cả ngoại tệ quy đổi). Tới năm 1999 thì số vốn huy động được lên tới 115508 tỷ
VNĐ, tăng 3.46 lần. Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên
doanh, năm 1995, huy động được 2085 tỷ VNĐ (kể cả ngoại tệ quy đổi ), năm 1999
lên tới 14413 tỷ VNĐ, tăng 7 lần. Năm 2000, số dư tiền gửi tại các ngân hàng, tổ
chức tín dụng (TCTD) đã tăng thêm 30%, một tốc độ rất cao có được là nhờ một số
giải pháp như: lãi suất huy dộng linh hoạt, phát hành trái phiếu ngân hàng Nhìn
chung, số vốn huy động được từ nền kinh tế vẵn tăng đều đặn trong các năm gần
đây, rất có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh vốn đầu tư từ
nước ngoài vào nước ta có xu hướng giảm sút. Tuy vậy, việc huy động vốn của các
ngân hàng vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Mức huy dộng vốn so sánh với các nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
trong khu vực thì Việt Nam vẵn còn ở mức thấp. Do vậy, nhìn chung, vẫn còn tình
trạng dư thừa vốn trong dân cư, trong khi toàn bộ nền kinh tế lại đang trong giai
đoạn rất cần vốn để phát triển.
b, Những hạn chế:
Sau các bước đổi mới khá toàn diện, chuyển sang chuyên doanh, các ngân hàng
thương mại Việt Nam đã huy động được một khối lượng đáng kể vốn trong nước và
quốc tế, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư
tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã
hội. Các dịch vụ mà hệ thống ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng và tiện dụng,
tiến dần đến các dịch vụ hiện đại của thế giới và khu vực. Tuy nhiên hệ thống ngân
hàng thương mại còn nhiều yếu kém, thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, kết quả đạt được vẫn còn hạn chế so với hệ thống ngân hàng của các
nước trong khu vực.
Thứ hai, phần lớn các ngân hàng thương mại còn thiếu một chiến lược kinh
doanh hiệu quả và bền vững trên cơ sở đánh giá đúng nguồn lực hiện có và dự báo
môi trường kinh tế, chính sách kinh doanh, chính sách khách hàng, kế hoạch và cá
biện pháp quản lý dài hạn.
Thứ ba, các ngân hàng thương mại (nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh,
ngân hàng thương mại cổ phần) đều có chỉ số tài chính yếu kém, hiệu quả kinh
doanh thấp, vốn nhỏ; ngoài ra sức cạnh tranh thấp, chất lượng tín dụng không cao,
chi phí nghiệp vụ lớn, khả năng sinh lời thấp.
Thứ tư, hệ thống kế toán chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế, kinh nghiệm và
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cũng như các thông tin về thị trường quốc tế còn hạn
chế, công nghệ hiện đại chưa được ứng dụng nhiều
Thứ năm, bộ máy tổ chức và quản lý nguồn nhân lực của các ngân hàng còn
nhiều bất cập về cả trình độ quản lý và điều hành, kiến thức thị trường và kinh
doanh, mô hình cồng kềnh và do đó chi phí cao.
Một ví dụ điển hình nói nên những hạn chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam
đó là sự trao đảo của cả hệ thống ngân hàng vào năm 2003. Do đặc điểm là trung
gian tài chính, là "chiếc ví" đựng tiền cho nền kinh tế, hoạt động ngân hàng tác
động tới tất cả các yếu tố kinh tế xã hội với tính chất dây chuyền. Hoạt động ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hàng thường xuyên chịu những ảnh hưởng khách quan rất khó kiểm soát do "thông
tin không đối xứng". Trong đó, những tin đồn thất thiệt được xem như một hiểm
hoạ.
Những tin đồn thất thiệt thường xuất hiện không có căn cứ với mục đích phá hoại
rõ rệt. Những ngày giữa tháng 10-2003, không hiểu từ đâu xuất hiện những tin đồn
thất thiệt nhằm vào Ngân hàng TMCP A Châu (ACB). Những tin đồn được tung ra
rất " thâm độc" rằng Tổng giám đốc ngân hàng này bỏ trốn, bị bắt; ACB có vấn đề
đến nỗi ngân hàng ACB - ngân hàng mạnh nhất trong các ngân hàng cổ phần ở
Việt Nam phải một phen điêu đứng. Tổng giám đốc ACB -ông Phạm Văn Thiệt,
thậm chí cả Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước- ông Lê Đức Thuý và Phó chủ tịch
UBND TP.Hồ Chí Minh - ông Nguyễn Thiện Nhân đã phải trực tiếp đến các điểm
giao dịch của Ngân hàng để giải thích và minh chứng cho sự thất thiệt của tin đồn
trên là mục đích phá hoại hoạt động của ACB nói riêng và hệ thống ngân hàng nói
chung. Nhân viên của ngân hàng này phải làm việc trong tình trạng quá tải khi
không ít khách hàng cả tin rút vốn. Cuối cùng rồi hoạt động của ACB cũng trở lại
bình thường, tin đồn trên cũng được xác định là tin đồn nhảm nhí Đây là sự cố
điển hình cho thấy tác hại của những lời đồn thổi.
Sự kiện ACB vừa kịp "nguội",một thời gian ngắn sau đó lại xuất hiện một tin liên
quan tới lĩnh vực ngân hàng. Số là ngày 9 và 10-11 vừa qua,trên một tờ báo xuất
hiện một tin là "Hệ thống thanh toán ATM của Vietcombank bị sự cố làm nhiều
giao dịch phải đình trệ, nhiều thẻ ATM (thẻ ghi nợ nội địa connect 24) bị hệ thống
xoá bỏ ra khỏi mạng giao dịch". Nhưng ngay sau đó, bà Nguyễn Thị Hà, phó tổng
giám đốc Vietcombank đã chính thức bác bỏ tin
này.Theo bà Hà thì trong hai ngày 9 và 10- 11, hệ thông smáy ATM của
Vietcombank đã xử lý khoảng trên 30.000 giao dịch khác nhau cho khách hàng trên
toàn quốc, và đây là minh chứng rõ rệt nhất về việc không có chuyện gì xảy ra đối
với hệ thống ATM của Vietcombank. Đó là chưa nói đến việc, trong hoạt động
ngân hàng rủi ro là không thể tránh khỏi, do vậy sự trục trặc của hệ thống, kiểu như
hệ thống ATM nếu có cũng là bình thường. Cũng phải nói thêm rằng, rút tiền tại
máy ATM ngươì ta chỉ rút một ít để tiêu dùng, nhưng tại nước ta có những người
rút rất nhiều , rút một lúc hàng chục triệu hoặc hơn, nên lượng tiền trong khay của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
máy ATM hết chưa kịp tiếp quỹ , cộng với đôi lúc đường truyền viễn thông trục
trặc ( hiện tượng này cũng thường xảy ra ) thế là lập tức có dư luận đường truyền
trục trặc, có vấn đề và khách hàng có thể bị mất tiền. Quả là những lời đồn hết sức
thiếu căn cứ.
Những ngày cuối năm 2003, dư luận lại xuất hiện một tin đồn " cay độc" rằng
nước ta sắp thực hiện đổi tiền. Chuyện bắt đầu từ việc ngân hàng Nhà Nước họp
báo thông báo phát hành thêm một số tiền giấy và tiền xu mới. Xét về bản chất ,
việc phát hành thêm tiền có mệnh giá mới chỉ nhằm mục đích thay đổi cơ cấu theo
hướng tăng công cụ thanh toán, chứ không làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh
tế . Thế nhưng, các thế lực phản động đã không chừa một thủ đoạn nào để thực hiện
mục đích phá hoại. Lợi dụng vào sự cả tin và sự thiếu thông tin của một bộ phận
nhỏ người dân, tin vào việc đổi tiền được các thế lực phản động tung ra. Chính từ
các tin đồn này cộng với một vài nguyên nhân khác nên chỉ vài ngày sau thời điểm
công bố phát hành các mệnh giá tiền mới, đây đó đã có hiện tượng tích trữ, găm giữ
vàng và USD vì lo ngại tiền Việt Nam sẽ mất giá. Giá vàng và USD tại thị trường tự
do tăng lên rất nhanh. Chỉ trong vòng có mấy ngày , giá vàng từ khoảng 735.000
đồng/chỉ tăng lên xấp xỉ 800.000 đồng/chỉ ,còn giá USD thị trường chợ đen cũng
tăng lên gần 500 dồng/USD chỉ trong một thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, mọi việc
cuối cùng đã rõ ,cả Thống đốc Ngân hàng Nhà nước dến các quan chức cao cấp
khác của Ngân hàng nhà nước cho biết tỉ giá USD/VNĐ sẽ tăng không quá 1,6%
trong năm nay và VNĐ sẽ đảm bảo giá trị. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà Nước cũng hỗ
trợ các doanh nghiệp nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường trong nước. Nhờ vậy tỉ
giá VNĐ/USD đã hạ xuống . Nhưng nào đã hết, trong những ngày nghỉ của tuần lễ
cuối cùng năm 2003, dư luận lại xôn xao với tin đồn : Ngân hàng Việt Nam sẽ thu
hồi hai loại tiền nhựa mới phát hành do chúng không được in năm sản xuất. Phó
giám
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- Nguyễn Thị Kim Phụng phải tức tốc mở cuộc
họp báo ngay trong tối ngày 27-12 để khẳng định: đây là tin đồn thất thiệt nhằm
gây mất ổn định tình hình an ninh tiền tệ . Căn nguyên của tin đồn này xuất phát
hiện : cả mặt trước và mặt sau của hai tờ bạc 50.000 và 500.000 không được in năm
sản xuất . Chúng ta cần biết rằng, tại Việt Nam hiện nay chưa có luật nào qui định
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -