Bà Ba Cai Vàng và cuộc khởi
binh chống Nguyễn năm
1862-1864
Bà Ba Cai Vàng (1836-1908), tên thật là Lê Thị Miên, còn được gọi là
Yến Phi, biệt biệu Hồng Y liệt nữ; là vợ ba của Cai Vàng, thủ lĩnh cuộc
nổi dậy chống lại nhà Nguyễn vào năm 1862-1864, dưới thời vua Tự
Đức tại miền Bắc Việt Nam.
Quê bà ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
Tương truyền, trong một ngày hội Lim, có một công tử đang giỡ trò thô
lỗ trêu ghẹo những cô gái quê. Bất bình, một chàng trai trẻ xông tới
tung quyền cước khiến người vị công tử ngã sóng soài trên mặt đất. Lập
tức, những người theo hầu ùa tới. Thất thế, chàng trai vội nhảy phốc
lên con ngựa của mình rồi phóng đi mất dạng
Người ta còn kể rằng, trong một lần thi đấu võ, có thủ lĩnh Cai Vàng
chứng kiến, cũng chính chàng trai ấy đã giao chiến với Đốc Đen, một
thuộc hạ của Cai Vàng, có tiếng là dũng mãnh. Trong lúc quần nhau dữ
dội, bất ngờ cái khăn nhiễu quấn đầu chàng trai bị xổ tung, để lộ ra một
mái tóc dài… Người con gái giả trai ấy, chính là Lê Thị Miên, một người
có tài văn (1) lẫn võ.
Sau đó, cô Miên đầu quân vào lực lượng của Cai Vàng và sau nữa, cô
trở thành người vợ thứ ba của vị thủ lĩnh này, nên còn được gọi là: Bà
Ba Cai Vàng.
Theo Đại Nam thực lục chính biên và Địa chí Bắc Giang, thì chồng bà tức
Cai Vàng có tên là Nguyễn Thịnh, người xã Vân Sơn, huyện Phượng
Nhỡn, Bắc Ninh (nay thuộc xóm Kẻn, thôn Vân Sơn, xã Phương Sơn,
huyện Lục Nam, Bắc Giang). Trước đây, ông làm Cai tổng, theo đạo Gia
Tô, tự xưng là Nguyên soái, suy tôn Lê Duy Uẩn (hoặc Huân) làm minh
chủ, lấy danh nghĩa phò Lê, để phát động cuộc nổi dậy chống lại nhà
Nguyễn (thời vua Tự Đức) tại Yên Thế (Bắc Giang).
Và theo bài Vè Cai Vàng (không rõ tác giả là ai), thì kể từ khi làm vợ, Bà
Ba Cai Vàng đã cùng chồng, chỉ huy hàng ngàn trai tráng để đánh nhau
với quân Nguyễn và đã lập được nhiều chiến công. Sử nhà Nguyễn cũng
đã ghi nhận rằng đội quân đông đảo của Cai Vàng đã lần lượt hạ thành
Phủ Mộc, thành phủ Lạng Giang, tiến qua vùng Yên Dũng, đánh tới tỉnh
thành Bắc Ninh. Thừa thắng, họ đánh tràn qua cả phủ Thuận Thành,
chiếm Siêu Loại-Văn Giang, phủ Từ Sơn, rồi xông lên huy hiếp thành Hà
Nội
Đề cập đến cuộc nổi dậy này, sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
chép:
Tháng Ba năm Nhâm Tuất (1862), ở Bắc Ninh có tên Cai tổng Nguyễn
văn Thịnh (tục gọi là Cai tổng Vàng) xưng làm nguyên súy, lập tên Uẩn
mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh chủ, rồi nhập đảng với tên
(Tạ Văn) Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng, và
vây thành Bắc Ninh. Bấy giờ quan Bố chính ở Hà Nội là Nguyễn Khắc
Thuật, quan Bố chính tỉnh Sơn Tây là Lê Dụ và quan Phó lãnh binh tỉnh
Hưng Yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc
(tr. 502)
Trong sách Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng) của Phạm Văn Sơn,
cũng đã kể rằng:
Nguyễn Văn Thịnh tôn lập Uẩn lên làm minh chủ. Uẩn mạo xưng là dòng
dõi nhà Lê, hợp sức với Tạ Văn Phụng dấy binh vào tháng Ba năm Nhâm
Tuất (1862), đánh phá các vùng Lạng Sơn, Yên Dũng (Bắc Giang), Bắc
Ninh, Tuyên Quang, làm tình thế miền Trung Du một thời rất nguy
ngập (tr.147-148).
Cũng theo sử liệu trên, thì tại Bắc Ninh, quân triều và quân Thịnh giao
phong trên mười trận, quân Thịnh mới tan. Qua tháng Ba năm Quý Hợi
(1863), quân triều (lúc này nhà vua đã phái thêm Nguyễn Tri Phương,
Phạm Đình Tuyển, Tôn Thất Huệ ra trợ lực) mới lấy được thành Tuyên
Quang, bắt sống được Uẩn đem về trị tội
Trong hơn mười trận đó, có lần đội quân nổi dậy đã đánh chiếm lại
được phủ Lạng Giang, giết chết viên quan Tri phủ là Lê Huy Trạc.
Tuy nhiên, theo dân gian thì chưa biết cuộc chiến này sẽ còn kéo dài
bao lâu nữa, nếu như thủ lĩnh Cai Vàng không chết sớm. Quyển Bắc
Giang địa chí, cho biết: ngày 30 tháng 8 năm Quý Hợi (tháng 9 năm
1863), Cai Vàng đi tuần tiễu trên sông Thương, giữa đường gặp đội
chiến thuyền của Lãnh Tảo (Phó lãnh binh Vũ Tảo). Tức thì, các họng
súng từ các chiến thuyền trên cứ nhắm mục tiêu mà nả đạn. Thuyền Cai
Vàng bị cháy, Đốc Xồm (một cộng sự của Cai Vàng) chết ngay trong
thuyền, còn Cai Vàng bị thương nặng, không ngồi dậy được, chẳng bao
lâu sau thì mất.
Còn dân gian thì kể rằng, do “có tên đày tớ phản thùng nội công” (Vè
Cai Vàng), nên quân triều biết chính xác nơi Cai Vàng đang trú quân, mà
trút đạn xuống như mưa, và đã giết chết được ông.
Để trả thù cho chồng, mùa xuân năm 1864, Bà Ba Cai Vàng trực tiếp
cầm quân đánh vào Nải Sơn (Kiến Thụy, Hải Phòng). Sau 22 ngày chiến
đấu liên tục, hao quân hao tướng mà không thắng được, bà cho lui
quân. Xét thấy, không còn đủ sức để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài
được nữa, ngày 11 tháng 3 năm 1864, bà tổ chức lễ tế chồng cùng các
thuộc hạ đã mất, rồi giải tán lực lượng
Theo truyền thuyết, Bà Ba Cai Vàng mai danh ẩn tích ở chùa Dặn (Đình
Bảng, Bắc Ninh). Cũng có người cho rằng, bà đã vào tu tại chùa Hương
nơi thôn Tứ Kỳ (nay là thôn Đại Trạch, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh), với pháp danh là Đàm Giác Linh. Tại chùa này, bà đã cho dựng
miếu Âm Hồn để thờ chồng (Cai Vàng) và các cộng sự đã bỏ mình trong
cuộc chiến vừa qua.
Năm 1908, ni cô Đàm Giác Linh (Bà Ba Cai Vàng) viên tịch, thọ 72 tuổi.
Hiện nay, tại miếu thờ trên vẫn còn có câu đối chữ Hán ca ngợi bà
(Hoàng Giá dịch):
Thời trẻ mang giáp trụ, cỡi ngựa phất cờ, nức tiếng anh hùng miền Kinh
Bắc;
Xuất gia vào chùa thiền, tụng kinh đọc kệ, hiểu tường đức độ Phật Như
Lai.
Giới thiệu Vè Cai Vàng
(Trích những đoạn liên quan đến Bà Ba Cai Vàng)
Cai Vàng tỉnh Bắc gan thay
Mộ quân bảy ngày được một vạn ba
Khen cho trí lực đàn bà
Bắc Ninh tài tướng vợ ba Cai Vàng
Đấu gan thi sức rõ ràng,
Vợ bé Cai Vàng đánh trận giỏi thay
Theo bài vè này, thì trước khi phất cờ chống Nguyễn, Cai Vàng có hỏi ý
kiến của ba bà vợ. Bà cả nói: "Điềm trời chưa vững đừng đi hội này", bà
hai nói: "Xin chàng nghe thiếp đừng đi", còn bà ba thì:
Nghe hai chị nói em đây không đồng.
Nói rồi quỳ xuống lạy chồng,
-Chàng dốc một lòng thiếp cũng xin chơi
Trước thái độ cương quyết của người vợ ba, Cai Vàng đồng ý khởi binh,
rồi thì:
Trong thì Cai Vàng xông pha
Ngoài thì vợ bé thứ ba đánh vào
Quân trào (triều) tán lạc binh đao,
Bốn bề súng bắn xôn xao đì đùng.
Đánh nhau đã ba giờ ròng,
Súng bắn đì đùng như thể pháo ran.
Đạn bắn như các rải đàng
Các quan vội vàng về tỉnh Bắc Ninh.
Truyền quân coi giữ mặt thành,
Cô Ba đuổi tới Bắc Ninh đánh trào.
Truyền quân đóng sập cử vào,
Hãm lương quân trào mấy tháng chẳng tha.
Ngoài thì đàn hát reo hò,
Các quan trong tỉnh nằm lo đêm ngày
Đoạn Cai Vàng bị trúng đạn, sắp mất:
Cô ba cầm lấy cổ tay,
Chàng ơi có thác phen này không oan.
Mình thiếp thi sức, thi gan
Mang thân thác cửa vua quan đáng đời.
Chàng thác yên phận chàng rồi,
Chàng thác đã vậy thiếp tôi thế nào?
Mình thiếp mười vạn binh đao
Biết rằng có chống lại trào được chăng?
Vợ chồng than thở vừa xong,
Cai Vàng sức kiệt dốc lòng ngã ra.
Truyền quân mang xác về nhà,
Tìm nơi an táng để mà cho yên.
Rồi ra lập lại binh quyền,
Cất quân ra đánh một phen báo thù