Puskin bàn về thơ và
nhà thơ
X. Bônđi khẳng định rằng cụm từ Trupxtva đôbrưê gắn với câu thơ thứ tư kêu gọi từ
tâm (milôxti) cho nên cụm từ này chỉ có thể hiểu là lòng tốt (đôbrôta) đối với mọi người.
Chúng tôi thiển nghĩ cách hiểu độc đoán này của Bônđi đã làm nghèo ý thơ của
Puskin. Theo quan điểm của chúng tôi cụm từ “những tình cảm tốt đẹp” rộng hơn lòng
tốt. Ngoài lòng tốt, những tình cảm tốt đẹp trong thơ Puskin còn vô cùng phong phú: tình
bạn, tình yêu, tình gia đình, lòng say mê thi ca, tình yêu thiên nhiên, khát vọng tự do, mong
muốn vinh quang, niềm vui sống, nỗi buồn trong sáng…
N.M Fortunatôp chủ biên và soạn giả viết bài về Puskin trong sách giáo khoa Đại
học Lịch sử Văn học Nga thế kỷ XIX(Matxcơva, 2008) có cách hiểu gần với chúng tôi. Giải
thích lý do vì sao ông lưu danh hậu thế, “chính Puskin đã trả lời như sau: cái thiện, từ tâm và
tự do – đó là những giá trị tinh thần căn bản”. Fortunatôp hiểu “những tình cảm tốt
đẹp” như cái thiện(đôbrô) tức là tập hợp của những gì tốt đẹp nhất.
2- Thơ và Nhà thơ
Quan hệ giữa nhà thơ và thơ của anh ta là tiêu chí quan trọng để xác định bản chất của
thơ trữ tình. Có hai quan điểm đối lập nhau về quan hệ giữa nhà thơ và thơ.
Nhiều nhà nghiên cứu đi theo chủ nghĩa tiểu sử, đồng nhất thơ và tiểu sử nhà thơ. Bàn
về Giucôpxki, nhà phê bình Bêlinxki viết: “Tác phẩm của nhà thơ có thể đồng thời là tiểu sử
tốt nhất của anh ta”. Chính Giucôpxki cũng nói: “Đời và thơ là một”. Nhà nghiên cứu người
Pháp H. Troyart, tác giả hai tập chuyên luận về Puskin cho rằng: “Sáng tác của ông chính là
hình ảnh của cuộc đời ông”.
Đối lập với quan điểm trên là những người phủ nhận hoặc coi nhẹ tác giả bài thơ. Các
nhà cấu trúc luận coi văn bản thơ là một cấu trúc khép kín, hoàn toàn tách rời thời đại và nhà
thơ. Nhà nghiên cứu Tây Ban Nha Ortêga I Gatxet cho rằng: “Nhà thơ bắt đầu nơi con người
kết thúc. Số phận người này là đi theo con đường “của con người”, sứ mạng của người kia là
tạo ra cái không tồn tại (…) Cuộc đời là một chuyện, thơ ca là một cái gì khác”
(2)
.
Cả hai quan điểm trên đều đúng một phần, đều nắm một nửa chân lý, và đều sai lầm
do cực đoan và phiến diện. Thơ gắn bó với tiểu sử nhà thơ và đều ít nhiều có chất tự thuật
nhưng thơ không phải là tác phẩm tự thuật. Puskin rất coi trọng chủ thể sáng tạo: “Chúng ta
thích thấy nhà thơ trong mọi trạng thái, mọi biến đổi tâm hồn sống động và sáng tạo của
anh ta: cả trong nỗi buồn, cả trong niềm vui, cả lúc hân hoan phấn chấn cũng như khi cảm
hứng dạt dào – cả trong sự phẫn nộ kiểu Giuvênan cũng như trong cơn bực tức nhẹ nhàng
về người hàng xóm tẻ ngắt…” (1836). Nhưng đồng thời Puskin cho rằng thơ không trùng
khít tiểu sử nhà thơ, thơ không xuất phát từ lợi ích vật chất thực dụng mà hướng tới sự sáng
tạo cái đẹp: “Trong lúc mỹ học từ thời Kant và Letxinh đã phát triển sáng rõ và rộng rãi thì
chúng ta vẫn còn chìm trong các khái niệm của kẻ cố chấp nặng Gốtsét; chúng ta vẫn cứ lặp
lại rằng “cái đẹp” là sự mô phỏng thiên nhiên đẹp, rằng phẩm chất chủ yếu của nghệ thuật
là “lợi ích”. Vì sao chúng ta ít thích các pho tượng tô mầu hơn các pho tượng thuần chất
bằng đá hoa và bằng đồng? Vì sao nhà thơ thích diễn tả tư tưởng của mình bằng các câu
thơ của mình? Và có lợi ích gì trong tượng Vênuyt ở Tixian và tượng Apôlông ở Benvêđe?
Sự giống như thật vẫn còn được xem là điều kiện và cơ sở của nghệ thuật kịch. Sẽ ra
sao nếu người ta chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng bản chất của nghệ thuật kịch thật sự loại trừ
sự giống như thật? Khi đọc trường ca, tiểu thuyết chúng ta thường có thể lặng người đi và
cho rằng sự việc được mô tả không phải là hư cấu mà là sự thật. Chúng ta có thể nghĩ rằng
trong tụng ca, sầu ca, nhà thơ mô tả tình cảm đích thực của mình trong các hoàn cảnh đích
thực (1830, N.H.H nhấn mạnh).
Về bài Con quỷ, một nhà phê bình cho rằng “con quỷ của Puskin không phải là một
thực thể tưởng tượng”. Có người còn nói bài thơ này ám chỉ người bạn của Puskin là
Alêchxan Raiepxki. Nhà thơ coi những ý kiến này là “không đúng” và “nhà phê bình đã sai
lầm”. Puskin cho biết trong Con quỷ ông muốn thể hiện “tinh thần phủ nhận hoặc hoài nghi
và ảnh hưởng đáng buồn của nó tới đạo lý thời đại chúng ta”.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng Puskin đã gạt bỏ nhiều câu thơ quá đậm chất tự
thuật. Chẳng hạn bài Hồi ức (1829) mà L. Tônxtôi và nhiều người rất thích chỉ còn 16 câu, bỏ
mất 20 câu thơ hay nhưng cay đắng. Bài Tôi lại về thăm (1836) bị bỏ nhiều câu, đáng chú ý
là 22 câu kết thúc thể hiện tâm trang buồn bực của nhà thơ trong hai năm bị quản thúc tại quê
nhà (1824-1825). Tất nhiên việc thêm bớt câu thơ của Puskin còn gắn với ý đồ, kết cấu và
tính hàm súc của bài thơ.
Khó mà nói bài Tôi yêu em gắn với mối tình nào của nhà thơ. Người đẹp phàm tục
Anna Pêtơrôpna Kern (1800-1879) thoắt trở thành “thiên thần sắc đẹp trắng trong” trong bài
thơ tình nổi tiếng thế giới Gửi K. (1826). Tình yêu đơn phương của Puskin đối với thiếu phụ
chết yểu Amalia Ritnhích (1803-1825) thăng hoa thành những vần thơ tình say đắm trong
bài Dưới bầu trời xanh quê hương (1826), Em từ giã dải bờ đất khách (1830, Thúy Toàn
dịch) và Tha thứ cho anh chăng những mộng tưởng ghen tuông (1823) với hai câu kết:
Em đâu biết anh yêu em mãnh liệt
Em đâu biết anh khổ đau khôn xiết
Gôgôn thấu hiểu công phu sáng tạo của Puskin: “Ngay cả những lúc ông loay hoay
“trong ngất ngây dục vọng”, thi ca đối với ông vẫn là vật thiêng, hệt như một ngôi đền. Ông
không bước vào đó với bộ dạng luộm thuộm, lôi thôi; ông không mang vào đó một cái gì
chưa nghiền ngẫm kỹ, nông nổi từ chính cuộc đời của riêng mình. Bước vào đó không phải là
một hiện thực tả tơi, lõa lồ (…) Bạn đọc chỉ cảm nhận được độc có hương thơm, nhưng
những chất liệu gì cháy rụi trong lồng ngực nhà thơ để có thể sản sinh ra hương thơm đó thì
không ai có thể thấy.”
Đại thi hào Gớt nói: “Thế giới rộng lớn, phong phú và cuộc sống đa dạng tới mức sẽ
chẳng thiếu gì nguyên cớ để làm thơ. Nhưng tất cả các bài thơ phải được viết ra “vì nguyên
cớ” (nhân cơ hội), nghĩa là hiện thực phải tạo ra nguyên cớ, chất liệu để làm việc đó. Cơ hội
riêng lẻ trở thành chung và nên thơ bởi vì nó được nhà thơ gia công. Tất cả thơ của tôi đều là
những bài thơ “vì nguyên cớ” (nhân cơ hội); chúng được hiện thực thôi thúc và vì thế có cơ
sở”. Ở đây Gớt đã nói ngắn gọn, dễ hiểu về quan hệ giữa Đời và Thơ, giữa chất liệu và hư
cấu, giữa cái tôi và cái ta (Riêng – Chung) giữa tiểu sử nhà thơ và thơ trong thi ca.
Dẫu sao tính tự thuật khá đậm nét trong thơ Puskin và ta có thể nói như nhà văn A.
Gherxen: “thơ trữ tình của Puskin là các giai đoạn đời ông, tiểu sử của tâm hồn ông” (N.H.H
nhấn mạnh).
Cho tới cuối thế kỷ XIX quan điểm Hêghen về thơ vẫn ngự trị: thơ trữ tình thể hiện
nội tâm, tính chủ quan của nhà thơ. Nhưng “tính chủ quan” đó phải chăng là nguyên phiến,
chỉ thuộc về một ý thức duy nhất, một tinh thần tuyệt đối? Gớt và Puskin cùng nhiều nhà thơ
đã chỉ ra bóng dáng cái ta bên cái tôi trong thơ trữ tình. Đầu thế kỷ XX nhà Mỹ học Nga M.
Bakhtin nhận ra “người khác”, “nhân vật” bên cạnh “tác giả” trong bài thơ. Năm 1910 bà M.
Susman người Đức gọi “người khác” đó trong thơ là Cái Tôi trữ tình và năm 1921 nhà lý
luận Nga Yu. Tưnhianôp gọi đó là Nhân vật trữ tình. Hai thuật ngữ này đã được vận dụng từ
ngót một trăm năm nay để phân tích thơ trữ tình. Tuy thế các thuật ngữ này vẫn chưa có cách
hiểu thống nhất và vẫn còn gây tranh cãi. Điều đó cho thấy mối quan hệ nhà thơ và thơ vẫn
còn phải tiếp tục được đào sâu, biện giải khoa học.
3- Con đường sáng tạo
Puskin nhắc lời Kinh thánh “sự thật mạnh hơn nhà vua”. Ông coi việc khám phá sự
thật là nhiệm vụ tối cao của nghệ thuật:
Hãy dũng cảm và coi khinh dối trá
Con đường sự thật phấn chấn noi theo
(Phỏng kinh Coran, 1824)
Bực bội vì chương VII tiểu thuyết Epghêni Ônêghin bị chê, Puskin đã nói một cách
cực đoan kiểu tranh luận: “Nhà thơ có thể chọn đối tượng vớ vẩn nhất, nhà phê bình không
cần phân tích điều nhà thơ mô tả mà cần phân tích cách anh ta mô tả”. Thật ra, Puskin rất coi
trọng “điều nhà thơ mô tả”, hơn thế ông còn đòi hỏi nhà thơ phải khám phá cái mới: “Nếu
như mọi cái đều đã được mô tả, thì anh viết để làm gì? Để nói một cách hoa mỹ điều đã được
nói một cách giản dị ư? Một việc làm thảm hại! Không, chúng ta không nên vu khống trí tuệ
con người – trí tuệ này vô tận trong cách hiểu thấu các khái niệm cũng như ngôn ngữ là vô
tận trong cách hiểu các từ” (1827). Và điều đặc biệt cần lưu ý là Puskin coi sự sáng tạo cao
nhất thể hiện trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa điều nhà thơ muốn mô tả và cái cách anh
ta mô tả điều đó: “Có sự táo bạo cao cấp: sự táo bạo phát minh, sáng tạo, ở đó bố cục rộng
lớn được bao bọc bởi một tư tưởng sáng tạo, - đó là sự táo bạo của Sêcxpia, Đantê, Miltơn,
Gớt trong Faust và Môlie trong Kẻ đạo đức giả” (1827).