Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Từ hiện tượng học đến triết học hiện sinh _2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.62 KB, 7 trang )

Từ hiện tượng học đến
triết học hiện sinh







Việc đặt câu hỏi về nghĩa của tính, Heidegger đã thức tỉnh nhân loại nhìn vào
chính bản thân để đừng Lãng quên hữu thể. Tất nhiên trong triết thuyết của Heidegger
còn có nhiều thâm u, bí hiểm nhưng những luận đề ông đặt ra đã có sức ảnh hưởng rất
lớn đến triết học, văn học châu Âu thế kỷ XX. Đúng như G. Figal nhận định: “Điều khó
phủ nhận là: sau Heidegger, không thể hiểu được triết học châu Âu thế kỷ 20 mà không
biết tới Heidegger”. Và “Nếu người ta muốn suy tư khác ông thì trước hết hãy suy tư với
ông đã. Quả vậy, không có ông thì triết học hiện sinh của J.P.Sartre khó hình thành cũng
như Đạo đức học của E. Lévinas; H.G. Gadamer cũng không phát triển được giải minh
học triết học; Michel Fourcault và J. Derrida chắc cũng sẽ viết khác nếu không tiếp cận
với ông. Ông cũng là triết gia thế kỷ XX có cái nhìn mới mẻ về lịch sử triết học; nhờ
ông mà các tác giả cổ điển như Platon, Aristote, Kant, Hegel được - và cần được - đọc
lại theo kiểu mới”
(12)
.
Vậy có thể thấy rằng Husserl và Heidegger đã có một vị trí quan trọng trong việc
khơi nguồn một trào lưu triết học mới ở phương Tây mà trong đó nổi bật là triết học hiện
sinh. Thực ra tư tưởng hiện sinh đã có từ lâu với các triết gia như Socrate, Thánh
Augustin, Pascal, Nietzsche, Kierkegaard… Nhưng với luận triết của Heidegger cộng
với điều kiện lịch sử của một phương Tây suy tàn sau đại chiến thì tư tưởng hiện sinh có
điều kiện nảy nở với sự xuất hiện liên tiếp nhiều triết gia hiện sinh và tạo nên Chủ nghĩa
Hiện sinh ở phương Tây thế kỷ XX. Con đường từ Heidegger đến Sartre là một biến thể
đặc biệt.


Có lẽ cuốn Tồn tại và Thời gian của Heidegger và Tồn tại và Hư vô của Sartre do
nhan đề và nhiều thuật ngữ có điểm tương đồng nên không ít ý kiến cho rằng Sartre
viết Tồn tại và Hư vô là tiếp nối phần 2 Tồn tại và Thời gian khiến cho Heidegger không
thể viết tiếp. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là các ý kiến đều cho rằng Sartre không hiểu
Heidegger và “Trên dặm mòn dang dở, Heidegger ngồi lại bên đường, Sartre tiến tới vớ
lấy cây gậy dài, kiêu hùng dấn bước, bỏ mặc người thầy lặng lẽ phía sau – Ô Sartre!
Ngươi mang cây gậy đi đâu? Ngươi sẽ làm gì đời nó? Ngươi có tôn trọng nó không?
Hay ngươi sẽ đẽo gọt lại? ngươi sẽ làm nó tổn thương? Ta rất đau lòng. Người đời sẽ
nhìn ngó cây gậy kia… kẻ bảo rằng: cây gậy này của Sartre, người lại bảo rằng cây gậy
này của Heidegger…” hay “Nhưng cái điểm điêu linh nhất cho Heidegger ấy là cái chỗ:
người đời vẫn cứ tưởng Sartre là kẻ hiểu thấu đáo Heidegger, và đã “vượt Heidegger!”
như chính Sartre cũng tự phụ tuyên bố…”
(13)
. Vấn đề tạo ra khúc mắc là do chính bản
thân những người tiếp nhận các tư tưởng đó. Điều này có thể chia làm hai loại: loại thứ
nhất là những nhà nghiên cứu triết học có tính hệ thống thấy được điểm khác biệt giữa
Heidegger và Sartre, tức là thấy rõ trên tiền đề Heidegger đặt ra Sartre đã triển khai và
biến những quan niệm đó theo một hướng khác. Loại thứ hai là số đông gồm nhiều
thành phần, họ có thể thấy tư tưởng Sartre nối tiếp và phát triển tư tưởng Heidegger.
Điều này có thể do triết luận của Heidegger trừu tượng, cao siêu trong khi cách trình bày
của Sartre lại khá cụ thể, dễ hiểu. Một vấn đề quan trọng là Sartre thể hiện tư tưởng ấy
qua văn chương. Chính vì thế chủ nghĩa hiện sinh nảy nở với tâm điểm là Sartre. Viết về
vấn đề này, Trần Đức Thảo trong Triết lý đã đi đến đâu?có viết: “do Jean-Paul Sartre
lấy lại của Martin Heidegger. Nhờ tư tưởng sơ thiển và văn thể phổ thông, Sartre được
nhiều ảnh hưởng trong tục lưu, tuy không có giá trị về mặt triết lý”
(14)
.
Trên cơ sở triết học của Heidegger và Sartre, cũng như tiếp thu những nhà nghiên
cứu đi trước, ở đây, chúng tôi muốn nhìn nhận sự tiếp biến tư tưởng từ Heidegger sang
Sartre và đó cũng là quá trình biến đổi từ Hiện tượng học sang triết học hiện sinh mà

Heidegger chỉ đóng vai trò bắc cầu. Cụ thể là Husserl lấy cái tôi thuần túy giải quyết
chân lý siêu hình học và chân lý nhận thức qua việc trở về với sự vật. Heidegger lại từ cá
nhân để tìm hiểu ý nghĩa của tồn tại và tìm ra tồn tại học phổ quát của thế giới và thời
gian. Riêng Sartre lại từ cá nhân để khẳng định cái tôi thuần túy. Như vậy có thể thấy
triết học Heidegger nghiên cứu bản chất của tồn tại nghiêng về tâm lý học, siêu hình
học. Còn Sartre định nghĩa sự tồn tại và nhìn nhận sự tồn tại của con người cá nhân
trong thế giới, nghiêng về xã hội học. Nói cách khác các nhà hiện tượng học tìm hiểu
thuộc tính còn Sartre tìm hiểu thực tại của mọi thuộc tính.
Từ quan niệm của Husserl về ý thức và tính chủ quan cùng với vấn đề Heidgger
đặt ra là tồn tại- tại thế, cùng với nhiều vấn đề Nietzsche đặt ra từ thế kỷ trước và những
kiến giải của Kierkegaard về tâm thức và thân phận con người trước cuộc đời, Sartre cho
rằng tồn tại con người trong thế giới này là thân xác. Thân xác là cơ cấu bền vững của
tồn tại và là điều kiện khả năng ý thức. Vì vậy, con người tồn tại đích thực là khi nó tồn
tại độc lập với thế giới bên ngoài. Với Sartre, con người hiện sinh có hai đặc điểm chính:
Một là con người tự tạo nên mình, làm mình thành người. Hai là để tạo nên mình con
người lựa chọn tự do. Như vậy, Husserl và Heidegger chỉ đặt ra một cái nhìn mới về chủ
thể còn Sartre khẳng định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới những
giá trị của con người gán cho nó. Từ vấn đề Husserl đặt ra hiện tượng có trước bản chất,
Sartre cũng khẳng định Hiện sinh có trước bản chất vì chúng ta lựa chọn bản chất của
mình bằng cách lựa chọn người mà chúng ta muốn trở thành. Bởi “Trước tiên con người
tồn tại, hiện diện, ra mắt, tiếp theo mới thuyết minh cho bản thân… Ban đầu con người
không có gì hết, chỉ về sau, con người mới biến thành cái gì đó, thế là con người dựa
theo ý chí của mình mà sáng tạo ra bản thân mình”
(15)
. Vậy nên, con người đảm nhận
hành động với ý thức, con người hiện sinh tự do là con người tự do quyết định xuất phát
từ hữu thể con người mình. Quan niệm này cũng đã được Heidegger đề cập tới: “Tự do
như là tự động tuyệt đối là tự do theo vũ trụ luận - một ý tưởng siêu nghiệm… Trong tự
động tuyệt đối không phải là ý chí và quy luật của ý chí, mà là tự mình bắt đầu một trạng
thái; trong tự chủ, ngược lại, không phải là một thực thể cá biệt được quyết định”

(16)
.
Sự biến chuyển trong quan niệm của Sartre khi nói về hiện tồn đó là chủ thể nhận
thức về mình như đặc thù một cá thể. Hiện tính thể không phải là việc hoàn nguyên của
tự tính mà là tồn tại thông qua sự lựa chọn để vượt lên cái thường nhật và trở thành
Tính. Trong Tồn tại và Hư vô, Sartre đã chia hai lĩnh vực tồn tại tự nó và tồn tại cho nó
như sau: “Cái cho nó nổi lên như sự hư vô hóa cái tự nó và sự hư vô hóa này được lý
giải như một dự phóng về cái tự nó. Giữa cái tự nó đã bị hư vô hóa và cái tự nó dự
phóng thì cái cho nó là hư vô. Vì vậy, mục đích và cùng đích của sự hư vô hóa mà tôi
theo đuổi là cái tự nó. Vì vậy, bao giờ con người cũng ham muốn là cái tự nó mang tư
cách là cái cho nó” hay nói đơn giản hơn là: “Tôi chỉ hiện hữu khi tôi sẽ không hiện hữu
nữa”
(17)
. Những chiêm nghiệm, suy tư của Heidegger về Tính cùng với hiện thực con
người là một hữu thể đang chết, Sartre đã khai thác triệt để vấn đề cảm thế tính, khả tính,
đọa tính… mà Heidegger đã đặt ra. “Với tính cách hữu thể, con người sống động và bí
ẩn, độc nhất không thể biết trước được… Heidegger còn thấy cần thiết phải giải minh
các trạng huống sinh tồn của con người… Từ đó, lo âu, sợ hãi, cái chết… trở thành
phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh…”
(18)
. Theo Sartre, con người luôn phải đối diện với
cái chết, cũng như con người từ hư vô trở về hư vô nên cuộc đời con người như một
đường hầm không lối thoát. Vì ý thức được điều đó cũng như nhận ra con người là hữu
thể cô đơn nên “Lo âu là sự nắm bắt phản tính tự do bởi chính nó”. Con người lo âu vì
phải mang trách nhiệm với bản thân. Cuộc tồn sinh là quá trình làm nên mình nên lo âu
là bạn đồng hành của con người. Và, khi lo âu kéo dài không có đường giải thoát thì con
người rơi vào tuyệt vọng vì con đường trước mắt là hư vô. Tuy nhiên tuyệt vọng không
phải là buông xuôi, khuất phục mà con người bắt buộc phải nhập cuộc. Hành trình làm
người là một quá trình mâu thuẫn, đau khổ vì không có một thước đo, chuẩn mực để
hướng tới. Chính vì con người bị (được) sinh ra để đi đến cõi chết và trong cuộc về với

hư vô lại quá trĩu nặng trách nhiệm cũng như sợ hãi nên cuộc đời thật phi lý biết bao.
Song, trong cái vòng bắt buộc của phận người ta có quyền lựa chọn để làm nên ta. Vậy,
cuộc đời không phải là phận số mà là những lựa chọn, những lựa chọn giúp ta trở thành
con người. Chỉ khi hiện sinh, đối mặt với mọi tình huống ta mới biết bản chất của mình.
Điểm khác biệt của Heidgger khi đề cập đến khả tính là những tiềm năng vốn có
của con người đã được Sartre phát triển cụ thể và gọi là dự phóng. Tức là cái hư vô và
cái tự nó làm nên dự phóng và dự phóng có nhiệm vụ cấu tạo nên lịch sử mỗi cuộc đời.
Chính vì chỉ lấy bản thân là tâm điểm nên “tai họa là tha nhân”. Vì tha nhân là kẻ khác
và không thể hiểu được mình nên mình luôn bị thương tổn hiện hữu. Sự thương tổn này
là bi kịch của con người, bởi đời sống trong tha nhân là tự đánh mất mình, mà như thế
con người luôn bị tha hóa. Husserl cũng đề cập đến mối quan hệ giữa cá thể và tha nhân,
nhưng với ông, ít nhiều chúng ta nắm được ý thức của người khác bằng việc liên thông
của những ý thức. Cho nên ý thức của những cá nhân không phải sống bơ vơ, xa lạ với
cõi đời mà tình ý hướng sẽ tạo ý thức sống với tha nhân, đó là tính liên chủ thể.
Tất cả những vấn đề Sartre đặt ra để làm sáng tỏ thân phận làm người, cụ thể là:
Hữu thể là một thảm kịch, là phi lý, là hư vô; con người luôn cô đơn và cái chết luôn
hiện diện. Nhưng con người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử
của mình bằng những dự phóng. Bên cạnh đó, chính cuộc hiện sinh lại làm con người
tha hóa vì tha nhân. Từ những luận đề trên, Sartre đã mang đến cho văn chương một
luồng sinh khí mới. Từ quan niệm về tự do, Sartre đã cho rằng: “… niềm vui thẩm mỹ
sinh ra từ tầm mức ý thức của tôi khi tôi thu hồi và nội hiện các phi ngã cao nhất, bởi vì
tôi biến cái đạt ngay thành mệnh lệnh và làm cho nó nổi bật lên: thế giới là nhiệm vụ của
tôi, nghĩa là chức năng chủ yếu và tự nguyện ưng thuận của niềm tự do của tôi chính thị
là đem đến cho tồn tại đối tượng duy nhất và tuyệt đối là vũ trụ trong một vận hành vô
điều kiện”
(19)
. Vậy sáng tạo nghệ thuật không chỉ là con đường giải thoát khỏi hư vô mà
sáng tạo còn là cách thức cao nhất bộc lộ tự do cá nhân. Bên cạnh đó, khi con người phải
tự làm nên mình thì sáng tạo còn là sự trải nghiệm. Đó là “cốt yếu đối với sự toàn vẹn
của tồn tại” bởi đó là quá trình vừa khám phá thế giới vừa khám phá bản thân vì người ta

không có nhiều cuộc đời để sống. Cuộc vượt lên và giải thoát đó vừa tạo nên giá trị văn
chương vừa tạo nên giá trị nhân vị. Không chỉ từ quan niệm về con người để trả lời câu
hỏi văn học là gì? Sartre còn vận dụng luận thuyết của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Những tác phẩm như Buồn nôn, Ruồi… đều bộc lộ tự tưởng của ông trong Tồn tại và Hư
vô, đó là: Hiện sinh từ thân phận và hoàn cảnh con người trong thế giới, một thế giới mà
trong đó ta bị đẩy vào và chờ đợi ở ta một ý nghĩa.
Như vậy cả Heidegger và Sartre cùng ưu tư về hiện hữu; nhưng, Heidegger luận
thuyết về cơ chế hoạt động của hiện hữu còn Sartre phân tích và minh chứng thân phận
của hiện hữu. Từ cách tư duy của Husserl và Heidegger về ý thức, Sartre nhận ra cái phi
lý của đời người. Con đường từ hiện tượng học đến triết học hiện sinh là con đường đi từ
phương pháp luận của Husserl đến cách thức lý luận và suy nghiệm của Sartre. Khi hiện
thực thời đại trở nên bi đát, thân phận con người trở nên mong manh trước biến động
của lịch sử và cái chết đang rình rập khắp nơi thì những vấn đề Sartre đặt ra trở thành
tâm thức thời đại; và từ đó triết học, văn học có nhiều bước ngoặt mới. Cuộc khai chiến
của Nietzche về việc lật đổ các giá trị đã tạo tiền đề cho phương pháp tìm kiếm nhìn
nhận lại các giá trị của Husserl và cũng giúp cho Heidegger nhìn vào chính giá trị của
cuộc tồn hữu. Sartre đã tiến thêm một bước, ông chứng minh các giá trị. Cái bí ẩn và
không thể biết trước được trong luận thuyết của Heidegger đã được Sartre cụ thể hóa.
Tất cả những chiêm nghiệm, suy tư của Heidegger về hiện hữu cũng như lý luận về triết
học hiện sinh của Sartre đã thổi vào văn học nhân loại một cách nhìn, một cách suy
tưởng về thân phận con người mang giá trị nhân đạo sâu sắc, chúng ta bắt gặp
trong Chuông nguyện hồn ai (Hemingway), Ruồng bỏ (Coetzee), Đời nhẹ khôn
kham(Kundera)… tất cả triết lý của cuộc sinh tồn. Vậy con đường từ hiện tượng học đến
chủ nghĩa hiện sinh cũng là con đường từ triết học đến văn học. Trên con đường ấy có
rất nhiều ngã rẽ nhưng cái đích đến cũng chỉ là một - cái đích cao cả nhất - là hướng tới
con người

×