Về Phan Châu Trinh:
Tính cập nhật kỳ lạ của một tư tưởng lớn
Như chúng ta đều biết, do những điều kiện lịch sử đặc thù, vào khoảng
đầu thế kỷ XX, Quảng Nam đã là một trung tâm nóng bỏng của công
cuộc tìm đường cứu nước vô cùng quẫn bách và thống thiết sau những
thất bại đau đớn của phong trào Cần vương (mà chính Quảng Nam cũng
là một trong những trung tâm quan trọng nhất).
Phan Châu Trinh lớn lên và bước vào cuộc đời hoạt động trong chính
tình hình đó. Ông ra Huế năm 1902, nhận làm một chức danh quan nhỏ
trong bộ Lễ. Chắc chắn ông không hề có ý đeo đuổi con đường hoạn lô.
Ông ra Huế là muốn đến đúng giữa trung tâm văn hoá chính trị quan
trọng nhất của đất nước hồi bấy giờ, nơi cũng đang có mặt những bậc
đại trí của dân tộc, trong đó có cả nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.
Chính ở Huế, cùng các bạn đồng chí, ông đã được tiếp xúc với các “tân
thư”. Và trong các bậc đại trí được tiếp xúc với các tân thư thời bấy giờ,
ông là người bị lay chuyển dữ dội nhất, sâu sắc nhất, đi đến quyết tâm
thay đổi cơ bản và sắt đá nhất, đi đến một đường lối cứu nước mới mẻ
triệt để và nhất quán nhất.
Học giả Hoàng Xuân Hãn đã nói về chuyển biến tư tưởng có ý nghĩa
quyết định đó của Phan Châu Trinh như sau:
“Sau khi phong trào Cần vương bị đàn áp ta rã hoàn toàn, Phan Châu
Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhước điểm cơ bản về văn hoá xã hội
Việt Nam, cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa của sự thua kém về văn hoá xã
hội của xã hội ta so với phương Tây đã đưa đến mất nước, bị đô hộ ngày
càng khốc liệt ”. Phân tích này của Hoàng Xuân Hãn là hết sức quan
trọng. Khác với tất cả các bậc thức giả, các nhà yêu nước lớn đương
thời, Phan Châu Trinh là người đầu tiên đi tìm và tìm thấy nguyên nhân
sâu xa “đã đưa đến mất nước và bị đô hộ ngày càng khốc liệt” không
phải ở đâu khác mà là chính ở trong văn hoá, ở “những nhược điểm cơ
bản về văn hoá xã hội của xã hội ta so với phương Tây”. Đây là một
chuyển biến có ý nghĩa cách mạng trong phương hướng tìm đường cứu
nước – mà trước hết và quan trọng nhất là tìm đúng nguyên nhân mất
nước và thất bại đau đớn của tất cả các phong trào cứu nước trước đó
mặc dầu vô cùng anh dũng, lẫm liệt – một nhận thức có tính cách mạng
và hết sức cơ bản không chỉ về con đường cứu nước, mà về lâu dài, cả
về con đường phát triển của dân tộc.
Phan Châu Trinh cho rằng sở dĩ chúng ta thua Pháp, mất nước, là vì
chúng ta thua họ một thời đại.
Suốt mấy nghìn năm lịch sử trước đó, trong tất cả các cuộc chống xâm
lược của Trung Hoa, rất nhiều lần chúng ta đã phải ở trong những tình
thế chênh lệch lực lượng rất hiểm nghèo mà bất lợi luôn nghiêng về phía
ta. Song dẫu có chênh lệch đến mấy về lực lượng, thì giữa chúng ta và
họ vẫn là đồng đại. Đấy đều là những cuộc xâm lược và chống xâm lược
trong nội bộ của chế độ phong kiến phương Đông. Lần này khác hẳn;
chúng ta đối đầu với những lực lượng cao hơn hẳn chúng ta cả một thời
đại. Sự thất bại là tất yếu.
Trước đó, Phạm Phú Thứ là một trong những người đầu tiên đã manh
nha nhận ra, việc chúng ta lạc hậu quá xa so với đối phương về khoa học
kỹ thuật. Nhưng sự so sánh của Phan Châu Trinh được đặt ở một tầm
mức cao rộng hơn nhiều. Ông nhận ra sự lạc hậu về văn hoá cả một thời
đại của chúng ta so với đối phương. Ông hiểu rằng đối mặt với phương
Tây là chúng ta đối mặt với cả một thời đại khác về văn hoá, mới mẻ và
tân tiến. Muốn cứu nước, phải khăc phục chính cái khoảng cách về thời
đại đó, phải tự thay đổi dân tộc mình, đưa dân tộc vượt lên hẳn một thời
đại mới, để từ đó, trong cuộc đối đầu, đọ sức với họ, giữa ta với họ là
những đối thủ bình đẳng, ngang bằng nhau về thời đại. Đây là một bước
tiến vĩ đại, một cuộc cách mạng trong tư duy. Về ý nghĩa, nó đưa công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính thức bước sang thời kỳ hiện đại.
Nó chủ trương tạo nên một cơ sở văn hoá xã hội mới có ý nghĩa quyết
định đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Là người đứng đầu phong trào Duy Tân, Phan Châu Trinh đã nêu ba nội
dung cơ bản của phong trào duy tân: Dân trí, Dân khí, và Dân sinh. Ba
nội dung đó gắn liền với nhau, nhưng như ta có thể thấy ngay trong cách
sắp xếp vấn đề, chìa khoá là dân trí. Ông cho dân trí là quyết định hàng
đầu: “Làm thế nào tạo được một số đồng chí (để rồi từ đó tạo được trong
toàn dân, điều mà quả thực ông đã làm được một cách tuyệt vời) dám có
cái nhìn đảo lộn ngai vàng, đảo lộn quý tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo
lộn đặc quyền đảo lộn phương thức sinh hoạt, phong tục tập quán vào
một thời xã hội còn tối ngòm ngòm”.
Tức chìa khoá của ông là “khai dân trí” (mở mang dân trí) ông là người
có niềm tin khổng lồ vào tri thức của con người, con người có tri thức
mới thì sẽ có thể làm nên tất cả, có thể lay trời chuyển đất.
Trong chỗ này có một điều cần chú ý: Phan Bội Châu cũng đã nói đến
vấn đề dân trí. Trong Lưu cầu huyết lệ tân thư, ông đề ra “những kế
hoạch sẽ cấp cứu đồ tồn” là:
1. Mở trí khôn cho dân (khai dân trí)
2. Nhức khối khí dân (chân dân khí)
3. Vun trồng nhân tài (thực nhân tài)
Nhưng sự khác nhau lớn giữa hai vị họ Phan là về vai trò của nhân dân.
Đúng như Nguyễn Văn Xuân nhận định: “Chính từ chủ trương nhân dân
tham gia việc nước mà Phan Châu Trinh luôn luôn không gặp và phản
đối chủ trương của Phan Bội Châu”.
Vậy quan niệm “con người có tri thức mới” trước đây đối với Phan Châu
Trinh phải là nhân dân, toàn dân có tri thức mới (chứ không phải một số
ít nhân tài, đương nhiên không hề coi thường vai trò của nhân tài).
Và “tri thức mới” đó trong quan niệm của ông là gì? Ông khẳng định rất
quyết liệt: đó là hiểu biết về Dân quyền (ngày nay ta gọi là dân chủ),
người dân biết rằng mình có quyền, biết rõ các quyền của mình trong xã
hội, trong cuộc sống, trên đất nước, trước thế giới. Theo cách nói ngày
nay, có thể ông cho rằng điều cơ bản để tạo nên sức mạnh lay trời
chuyển đất là dân chủ về thông tin (“Dân biết”), trao thông tin về những
quyền của nhân dân cho chính nhân dân. Ông coi đó là nền tảng cơ bản,
là cơ sở của độc lập tự chủ, của vận mệnh đất nước, của tiến bộ xã hội,
của hạnh phúc nhân dân, là nội dung và ý nghĩa chủ yếu của độc lập dân
tộc, và cũng là sức mạnh vô địch để khôi phục và giữ vững nền độc lập.
Thậm chí ông còn cho rằng nếu có thoát khỏi tay ngoại bang, giành
được độc lập, mà không có dân quyền, không có dân chủ, dân trí thấp,
người dân không giác ngộ về quyền dân chủ của mình và sử dụng có
hiệu quả quyền đó để làm chủ đất nước, xã hội, thì cũng là vô nghĩa,
nhân dân không thể có hạnh phúc, đất nước không thể phát triển, và như
vậy nền độc lập dân tộc cũng không thể vững chắc.
Phong trào Duy tân thực chất là một cuộc vận động cách mạng cơ bản
và sâu sắc như ta đã thấy, lại chủ yếu là một cuộc vận động cải cách giáo
dục rộng lớn và thật lạ kỳ về nhiều mặt.
Kỳ lạ: - Cuộc cách mạng giáo dục đó được tiến hành ngay dưới một chế
độ thực dân hết sức tàn bạo, khắc nhiệt, giữ được thế hợp pháp của nó
một cách tuyệt vời.
Khác với Đông Kinh nghĩa thục chủ yếu tập trung vào “giới tinh hoa”
(élite) của xã hội, cuộc vận động giáo dục mới ở Quảng Nam, và sau đó
lan ra khắp Trung Kỳ, ảnh hưởng lớn đến cả nước, chủ yếu nhằm vào
một cuộc cải cách giáo dục sâu rộng, với tư tưởng cơ bản là thực học,
đối với chúng ta ngày nay dường như bỗng trở lên thời sự một cách lạ
thường, khi nền giáo dục của chúng ta đang lâm vào sự xuống cấp toàn
diện và nặng nề. Nếu chúng ta đủ dũng cảm và trung thực để nhìn nhận
nền giáo dục của chúng ta hiện nay thì phải nhận rằng một trong những
căn bệnh trầm kha nhất của nó, gây nên sự xuống cấp của chính nó và
ảnh hưởng không nhỏ đến sự xuống cấp trong xã hội – bệnh học giả dạy
giả, chạy theo hư danh – cũng chính là căn bệnh mà Phan Châu Trinh đã
quyết liệt đả kích và kiên quyết cải tạo, và đã cải tạo thành công, trong
phong trào duy tân vĩ đại của ông tạo một sức mạnh xã hội to lớn đến
không ngờ.
Phan Châu Trinh đã bắt đầu bằng thực học để tạo nên sức mạnh của xã
hội và quốc gia, để xây dựng một xã hội dân chủ trên cơ sở một dân trí
được thật sự nâng cao.
Phải chăng bài học cơ bản ấy, cả con đường đi cụ thể ấy – con đường bắt
đầu bằng một cuộc đột phá cách mạng về giáo dục, rất có thể có ý nghĩa
thật sự thiết thực đối với chúng ta hôm nay.