CHIẾN THẮNG NHƯ NGUYỆT
MÙA XUÂN NĂM 1077
Như vậy, sau khi chủ động tiến công trước, giáng cho kẻ thù
đang chuẩn bị xâm lược một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất
ngờ, Lý Thường Kiệt đã kịp thời rút quân về nước, bày sẵn một thế
trận để chủ động đánh tan các đạo quân xâm lược Tống. Đặc điểm nối
bật của thế trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng
điểm,phối hợp chặt chẽ giữa quân đội chủ lực của triều đình với lực
lượng vũ trang của nhân dân địa phương nhằm đánh địch cả trước
mặt và sau lưng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, ta lập chiến tuyến
để đánh giặc, Lý Thường Kiệt không chủ trương phòng ngự đơn thuần,
bị động. Sau một thời gian phòng ngự làm thất bại chiến lược đánh
nhanh thắng nhanh và khoét sâu những khó khăn, nhược điểm của
địch, quân ta sẽ chủ động tạo ra thời cơ để phản công quét sạch quân
giặc ra khỏi đất nước. Ý định phản công đó được chuẩn bị từ đầu và
thể hiện rõ ở thế trận cùng với sự bố trí lực lượng của Lý Thường Kiệt.
Những đội quân vùng thượng du sau khi đón đánh quân địch tiến công
vẫn ở lại tích cực hoạt động trong vùng địch chiếm đóng, làm cho
quân địch càng ngày càng bị tiêu hao, mệt mỏi. Trong lúc đó, quân
chủ lực, quân bộ và quân thủy vẫn tập trung ở những vị trí cơ động
để có thể nhanh chóng chuyển sang tiến công giáng cho kẻ thù những
đòn quyết định.
Chiến tuyến sông Như Nguyệt vừa là tuyến phòng ngự buổi đầu vừa là
bàn đạp xuấtphát của cuộc phản công chiến lược sau này. Tư tưởng
chủ đạo của Lý Thường Kiệt quán triệt từ đầu chí cuối cuộc chiến
tranh là tư tưởng tiến công hết sức chủ động. Chính vì vậy chiến
tuyến sông Như Nguyệt là nơi sẽ diễn ra những trận chiến đấu ác liệt
làm thất bại mọi cố gắng tiến công của quân địch và cũng là nơi sẽ
diễn ra trận quyết chiến chiến lược quyết định thắng lợi của dân tộc ta
và thất bại thảm hại của quân Tống xâm lược.
Cuối năm 1076, quân Tống bắt đầu cuộc viễn chinh xâm lược nước ta.
Thủy quân địch từ Khâm Châu tiến trước về phía Vĩnh An (Móng Cái,
Quảng Ninh). Bộ binh địch tập trung ở Ung Châu theo nhiều ngả vượt
biên giới tiến vào nước ta.
Ngày 08 tháng 01 năm 1077, đại quân do Quách Quỳ chỉ huy
vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn, định theo đường thiên
lý xuống Thăng Long trên các đường tiến quân của địch, quân ta chặn
đánh quyết liệt ở nhiều nơi, gây cho chúng một số khó khăn, thiệt
hại.
Ngày 18 tháng 01 năm 1077, các mũi tiến công của quân Tống đến
bờ bắc sông Cầu.
Đúng như dự kiến của Lý Thường Kiệt, đến đây bộ binh và kỵ binh
địch bị chặn đứng đứng trước chướng ngại tự nhiên và chiến tuyến
kiên cố của quân ta ở bờ nam Như Nguyệt. Đây chính là lúc và nơi
quân thủy bộ của địch cần phối hợp với nhau, tổ chức vượt sông để
tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch hành quân đã vạch ra. Nhưng
thủy binh Tống đã bị đội binh thuyền ta, do Lý Kế Nguyên chỉ huy,
chặn lại ở Vĩnh An. Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông
Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng 10 trận liền bị quân ta
đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Tiến không được, rút
lui về nước sợ bị tội, thủy binh địch đành đóng ở cửa sông Đông Kênh
để chờ đợi tin tức của cánh quân bộ. Cho đến lúc có lệnh triều đình
gọi về, bọn này mới biết chiến tranh đã thất bại! Đó là một thắng lợi
có ý nghĩa chiến lược của quân ta nằm trong toàn bộ kế hoạch kháng
chiến của Lý Thường Kiệt.
Chưa thấy thủy binh vào để hiệp đồng vượt sông, Quách Quỳ quyết
định phải đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt trên một trận
tuyến dài 60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét). Với ý đồ chuẩn bị vượt
sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long,
hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược, quân địch không dàn đều lực
lượng trên trận tuyến kéo dài đó, mà đóng thành từng khối ở những vị
trí xung yếu và nhất là ở những bến đò, con đường thuận lợi tiến về
Thăng Long.
Một bộ phận quan trọng quân Tống do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy,
đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt, vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình
(huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) ngày nay. Đại bản doanh của chủ tướng
Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu vực đóng quân của Triệu Tiết
60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét) (Lý Đào, Tục tư trị thông giám
trường biên, sách đã dẫn). Hiện nay, tài liệu trong thư tịch và kết quả
điều tra khảo sát điền dã chưa cho phép xác định địa điểm đóng quân
này của địch. Nhưng căn cứ vào khoảng cách 60 dặm về phía đông so
với sở chỉ huy của Triệu Tiết thì có thể phỏng đoán đại bản doanh của
Quách Quỳ đặt ở khoảng đối diện với Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh), thuộc
huyện Việt Yên (Bắc Giang) ngày nay. Đây cũng là một vị trí trọng
yếu ở gần bến đò Thị Cầu và nằm trên đường thiên lý đi Thăng Long.
Như vậy, quân địch chia làm hai khối lớn do chánh tướng và phó
tướng trực tiếp chỉ huy, đóng ở hai địa điểm cách nhau 60dặm ở bờ
bắc sông Như Nguyệt. Hai địa điểm ấy đều ở trước hai bến đò quan
trọng của sông Như Nguyệt (bến Như Nguyệt và bến Thị Cầu) và nằm
trên hai trục vận động thuận lợi nhất tiến về Thăng Long (đường Như
Nguyệt - Thăng Long và Thị Cầu - Thăng Long). Điều đó càng chứng
tỏ quân địch vẫn giữ đội hình tiến công và tạm đóng quân lại để tìm
cách vượt sông Cầu, chọc thủng phòng tuyến quân ta, mở đường tiến
đánh Thăng Long.
Khoảng giữa hai khối quân lớn ở hai phía đông, tây một bộ phận quân
Tống còn chia nhau đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thế liên hệ,
tiếp ứng với nhau khi tổ chức vượt sông cũng như khi bất ngờ bị quân
ta tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ
Lát, xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên, Bắc Giang) ngày nay. Khu núi Tiên
Lát gồm có núi Voi, núi Chúc, núi Lều, núi Hoàng độ cao dưới 80
mét. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể quan sát một vùng rộng lớn
ở bờ nam sông Như Nguyệt từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long và cả
vùng Thị Cầu, Đáp Cầu.