CHIẾN THẮNG NHƯ NGUYỆT
MÙA XUÂN NĂM 1077
Chờ mãi không thấy thủy binh, Quách Quỳ lại phải ra lệnh tổ
chức cuộc tiến công lần thứ hai. Lần này, chúng huy động một lực
lượng mạnh hơn và đóng bè lớn chở quân qua sông. Mỗi lần bè đưa
được 500 quân. Hết lớp này đến lớp khác, quân địch đổ bộ sang bờ
nam sông Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông
(Hiện nay, chưa có cứ liệu xác thực về địa điềm vả thời gian của cuộc
tiến công thứ hai của quân Tống. Truyền thuyết dân gian vùng ven
sông Như Nguyệt có nhắc đến một cuộc chiến đấu ác liệt của quân ta
ở Phấn Động (Tam Đa, Yên Phong) chống lại quân Tống từ Tiên Lát
(Tiên Sơn, Việt Yên) tiến công sang. Phải chăng đây là nơi quân địch
vượt sông tiến công vào chiến tuyến quân ta lần thứ hai này?). Chúng
chặt, đốt những hàng rào bằng tre. Nhưng giậu dày mấy tầng rất khó
phá, lại bị quân ta từ trên chiến lũy đánh xuống dữ dội.
Do khả năng chuyên chở của bè, mỗi lần quân địch chỉ đổ bộ được
500 quân, rồi phải đưa bè về bờ bắc để tiếp tục chở đợt sau. Trước
chiến tuyến kiên cố và sức phản kích mãnh liệt của quân ta, quân địch
đố bộ đợt nào bị tiêu diệt đợt đó. Lớp trước bị tiêu diệt, lớp sau sang
cứu viện lại tiêu diệt nốt. Một người Tống đương thời đã mô tả trận
đánh như sau: “Dùng bè chở 500 quân vượt sông, vừa chặt vừa đốt
mấy lớp trại rào tre không được, đem bè không về để chở cứu binh
nhưng lại bị giặc (chỉ quân ta) bắt giết. Thế là quân ta khôngđược
cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được" (Trình Di, Trình Hạo,
Nhị Trình di thư¬, sách đã dẫn).
Cuộc tiến công lần thứ hai của quân Tống lại bị đập tan. Lần này,
quân địch không những không chọc thủng được chiến tuyến quân ta
mà còn bị chặn đứng lại phía trước bãi chướng ngại ven sông và bị
tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta lại ghi thêm một chiến công mới trong
cuộc chiến đấu dũng cảm và mưu trí bảo vệ chiến tuyến sông Như
Nguyệt.
Hai lần vượt sông tiến công, hai lần bị thất bại thảm hại. Trước dòng
sông Như Nguyệt và chiến tuyến bờ nam của quân ta, Quách Quỳ cảm
thấy bất lực, không có sự hiệp đồng của thủy binh thì bộ binh và kỵ
binh Tống không thể vượt qua được. Viên chánh tướng thống lĩnh 10
vạn quân chiến đấu và 20 vạn phu phục dịch của triều Tống không
dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Quỳ quyết định dứt khoát phải
chờ thủy quân và buồn rầu ra lệnh “Ai bàn đánh sẽ chém!" (Tôn
Thăng, Đàm Phố, dẫn theo Lý Thường Kiệt, sách đã dẫn, trang 289).
Quân địch từ thế tiến công đã phải chuyển sang thế tạm thời cố thủ
để chấn chỉnh lực lượng và đợi thủy quân. Ý đồ đánh nhanh thắng
nhanh của địch đã bị phá sản. Đó làmột thất bại có ý nghĩa chiến lược
rất nặng nề đối với quân Tống. Trong tình hình đối nội đối ngoại khó
khăn của triều Tống lúc bấy giờ, thất bại đó càng trở nên nguy hại.
Lực lượng quân địch chưa bị tổn thất nhiều lắm, nhưng thế của địch
đã trở nên suy yếu, bị động. Sách Tục tư trị thông giám trường biên
của Lý Đào chép: "Quân ta (chỉ quân Tống - T.G.) không sang sông
được. Muốn đánh cũng không được” (Tống – Lý bang giao tập lục,
sách đã dẫn, trang 170).
Như thế là quân ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược quan trọng làm cơ sở tiến lên giành thắng lợi quyết định. Chủ lực
của địch là bộ binh và kỵ binh đã bị tách rời khỏi thủy binh và bị chặn
đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy có chiếm
được khu vực đông - bắc và bắc ngạn sông Cầu, nhưng đã mất thế
chủ động tiến công và bị giam hãm trong một địa bàn hết sức bất lợi.
Trước mặt quân Tống, chiến tuyến của quân ta càng ngày càng trở
nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày, Lý Thường Kiệt cho
quân sĩ khiêu khích, nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công.
Chúng chỉ dùng máy bắn đá từ bờ bắc bắn sang bờ nam.
Sau lưng địch, quân dân ta lại luôn luôn mở những trận quấy rối, tiêu
hao quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu
số ở vùng núi rừng phía bắc và đông - bắc giữ một vai trò quan trọng
và có nhiều cống hiến xuất sắc Những đội quân vùng thượng du thực
chất là lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số do các tù trưởng
của họ chỉ huy. Trong cuộc tập kích thành Ung Châu, có những tù
trưởng đã huy động gần như toàn bộ nhândân trong vùng đi chiến
đấu. Do đó, sử nhà Tống ghi: “Dân Man kéo hết cả nhà theo, chỉ để
một vài người ốm yếu ở nhà” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường
biên, sách đã dẫn). Khi quân Tống ào ạt tràn sang xâm lược các đội
quân vùng thượng du đã chiến đấu dũng cảm, làm chậm bước tiến
của quân địch và tiêu hao một phần sinh lực địch, tiêu biểu nhất là
cuộc chiến đấu của phò mã Thân Cảnh Phúc ở ải Quyết Lý và Giáp
Khẩu. Thân Cảnh Phúc vốn là một tù trưởng có thế lực của dân tộc
Tày ở động Giáp (nam Lạng Sơn, bắc Bắc Giang) đã ba đời lấy công
chúa vua Lý, làm phò mã nhà Lý. Lợi dụng địa hình hiểm yếu Thân
Cảnh Phúc và đội quân người Tày đã đánh cản địch có kết quả. Đạo
quân chủ lực của Quách Quỳ không dám vượt qua ải Giáp Khẩu (Chi
Lăng, Lạng Sơn). Quách Quỳ phải cho một bộ phận theo đ¬ờng núi
phía tây đánh vòng vào sau lưng Giáp Khẩu để mở đường thiên lý cho
đại quân tiến xuống. Nhưng sau khi quân địch đã tràn qua hoặc chiếm
đóng, những đạo quân thượng du liền phân tán lực lượng, tận dụng
địa hình núi rừng quen thuộc, chặn đánh những cuộc hành quân của
địch, cản trở sự chuyên chở, tiếp tế lương thực. Đặc biệt ở vùng động
Giáp, đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc đã tiến hành lối đánh
phân tán, đánh lẻ rất có hiệu quả. Sách Đại Việt sử ký dẫn một đoạn
trong sách Quế Hải chí chép về hoạt động của người anh hùng dân tộc
Tày này như sau: "Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn
trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì ra giết chết hoặc
bắt về… Người ta cho là một vị thiên thần”. Quân địch càng ngày càng
bị tiêu hao, mệt mỏi vì những hoạt dộng du kích lợi hại đó. Quân Tống
tạm thời chiếm được vùng núi rừng đông - bắc của nước ta. Đó là
vùng thượng du và trung du, phần lớn là núi cao rừng rậm, cư dân
thưa thớt mà quân địch không thể cướp bóc, vơ vét lương thực để đủ
nuôi sống hàng chục vạn quân và phu. Việc tiếp tế lương thực cho 10
vạn quân chiến đấu hoàn toàn trông chờ vào sự vận chuyển bằng
đường bộ của dân phu. Theo sự tính toán của viên chuyển vận sứ Lý
Binh Nhất thì phải có 40 vạn phu chuyên chở mới đủ cung cấp lương
ăn cho 10 vạn quân và 1 vạn ngựa trong một tháng. Nhưng nhà Tống
chỉ điều động được 20 vạn phu. Ngay khi tiến quân vào nước ta, vấn
đề quân lương đã là một khó khăn lớn của nhà Tống vì bao nhiêu căn
cứ hậu cần xây dựng ở vùng biên giới đã bị cuộc tập kích của Lý
Thường Kiệt phá sạch, mấy năm ấy nhiều nơi lại mất mùa và số phu
không đủ vận chuyển. Vì thiếu phu vận lương mà một số vũ khí và
tên sắt của quân lính đã phải bỏ lại. Càng đóng quân lâu ngày Ở vùng
bắc sông Cầu, quân Tống càng bị lâm vào cảnh thiếu lương thực
nghiêm trọng. Số phu vận chuyển đã thiếu lại phải chuyên chở từ hậu
phương xa xôi sang, đường đi lại khó khăn hiểm trở và luôn luôn bị
quân dân ta chặn đánh.