Bảo vệ thiên nhiên hoang dã 2 1 2 3 3 - 2
Bảo tồn da dạng di truyền và loài 1 2 1 1 1 2 1
Duy trì các dịch vụ môi trường 2 1 1 - 1 2 1
Các đặc điểm văn hoá, thiên
nhiên đặc trưng
- - 2 1 3 1 3
Du lịch và giải trí - 2 1 1 3 1 3
Giáo dục - - 2 2 2 2 3
Sử dụng bền vững các nguồn tài
nguyên
- 3 3 - 2 2 1
Duy trì các thuộc tính văn hoá,
truyền thống
- - - - - 1 2
Chú thích: 1. Mục tiêu hàng đầu; 2. Mục tiêu thứ yếu; 3. Mục tiêu có thể
áp dụng; - không áp dụng
Các định nghĩa, các mục tiêu và các tiêu chuẩn chọn lựa cho các
hạng mục được tổng kết như sau (IUCN, 1994):
Hạng I. Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt hay các khu hoang dã: các
khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho khoa học hay bảo vệ thiên nhiên
hoang dã
Hạng Ia: Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt: các khu bảo vệ
được quản lý chủ yếu cho khoa học
Định nghĩa: là diện tích đất liền hay ở biển chứa các hệ sinh thái
nổi bật hay tiêu biểu, các đặc điểm địa lý, sinh lý của loài thuận tiện cho
nghiên cứu khoa học và quan trắc môi trường
Các mục tiêu quản lý:
• Bảo vệ nơi ở, hệ sinh thái và loài tránh khỏi những xáo động càng
nhiều càng tốt.
86
• Duy trì các nguồn gen
• Duy trì các quá trình sinh thái
• Bảo vệ các đặc điểm về cấu trúc cảnh quan
• Bảo vệ các mẫu của môi trường tự nhiên cho các nghiên cứu khoa học,
quan trắc và giáo dục môi trường
• Có qui hoạch để giảm thiểu các xáo động
• Hạn chế sự thâm nhập của cộng đồng
Hướng dẫn chọn lựa:
• Diện tích phải đủ lớn để bảo đảm tính thống nhất của hệ sinh thái và
để thực hiện được các mục tiêu quản lý
• Khu vực được chọn phải nằm ngoài sự can thiệp trực tiếp của con
người và có khả năng để duy trì điều đó.
• Việc bảo tồn sự đa dạng sinh học của khu vực đạt được qua việc bảo
vệ, không cần sự quản lý tích cực hay cải tạo nơi ở
Hạng Ib. Khu bảo tồn hoang dã: khu bảo vệ được quản lý chủ yếu
bảo vệ thiên nhiên hoang dã
Định nghĩa: Một diện tích lớn trên đất liền hay biển, không bị biến
đổi hay ít biến đổi, duy trì được những đặc điểm hay các ảnh hưởng của tự
nhiên, không có sự cư trú thường trực hay đáng kể của con người, được
bảo vệ và quản lý để bảo tồn tình trạng tự nhiên
Các mục tiêu quản lý:
• Bảo đảm cho các thế hệ tương lai có cơ hội am hiểu và thưởng thức
được một vùng diện tích rộng lớn không bị xáo động bởi các hoạt
động của con người trong thời gian dài
• Duy trì các thuộc tính thiên nhiên thiết yếu và đặc trưng môi trường
qua thời gian dài
87
• Tạo cơ hội thâm nhập cho cộng đồng ở nhiều mức độ và một dạng
phục vụ tốt nhất về vật chất và tinh thần cho du khách mà duy trì được
các đặc trưng của thiên nhiên hoang dã cho thế hệ hiện tại và tương lai
• Có thể cho phép các cộng đồng bản địa sinh sống với mật độ thấp
trong sự cân bằng về các nguồn tài nguyên hiện có để duy trì cuộc
sống của họ
Hướng dẫn chọn lựa:
• Khu vực có đặc trưng cao về thiên nhiên, bị chi phối chủ yếu bởi các
thế lực thiên nhiên, không có những xáo động của con người và có khả
năng tiếp tục thể hiện các thuộc tính đó nếu được quản lý theo dự định
• Khu vực phải có các đặc trưng có ý nghĩa về sinh thái, địa chất hay các
đặc điểm khác về khoa học, giáo dục, cảnh quan hay giá trị lịch sử
• Khu vực nên có được sự yên tĩnh, thích thú cho du khách, tránh các
phương tiện di chuyển gây ồn, gây ô nhiễm
• Khu vực bảo vệ phải đủ rộng để tiến hành các hoạt động bảo tồn và sử
dụng
Hạng II. Vườn Quốc gia: khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho bảo vệ hệ
sinh thái và du lịch
Định nghĩa: Diện tích đất liền hay biển được chọn để bảo vệ tính
thống nhất sinh thái của 1 hay nhiều hệ sinh thái cho hiện tại và các thế hệ
tương lai, ngăn chặn việc khai thác hay chiếm cứ gây hại đến mục tiêu đề
ra và tạo cơ sở về tinh thần, khoa học, giáo dục, nghỉ ngơi và các cơ hội
cho du khách, tất cả các điều đó phải tương thích với môi trường và văn
hoá.
Mục tiêu quản lý:
• Bảo vệ các khu vực thiên nhiên và cảnh quan có ý nghĩa quốc gia và
quốc tế về các mục đích tinh thần, khoa học, giáo dục hay du lịch
• Duy trì hiện trạng càng thiên nhiên càng tốt các ví dụ tiêu biểu về các
vùng địa lý tự nhiên, các quần xã sinh học, các nguồn gen và các loài
để tạo ra sự ổn định và đa dạng sinh thái
88
• Quản lý việc sử dụng của du khách đối với các mục tiêu tinh thần, giáo
dục, văn hoá và giải trí trong mức độ vẫn duy trì hiện trạng tự nhiên
hay gần tự nhiên
• Giảm thiểu và sau đó ngăn chặn việc khai thác và chiếm cứ không thân
thiện với mục đích đặt ra
• Duy trì việc tôn trọng các thuộc tính về sinh thái, địa hình, thẩm mỹ đã
được bảo đảm trong mục tiêu
• Cần tính đến các nhu cầu của dân bản xứ bao gồm việc sử dụng tài
nguyên, trong chừng mực các hoạt động này không có những tác động
gây hại đối với các mục tiêu quản lý.
Hướng dẫn chọn lựa:
• Khu bảo vệ phải tiêu biểu về các vùng thiên nhiên chủ yếu, các đặc
trưng về cảnh quan và các loài động thực vật, địa mạo, nơi mà không
có những xáo động của con người và có khả năng tiếp tục thể hiện các
thuộc tính đó nếu được quản lý theo dự định
• Khu bảo vệ phải rộng để chứa được toàn bộ một hay một vài hệ sinh
thái mà không bị chi phối bởi các hoạt động của con người do chiếm cứ
hay khai thác
Hạng III: Di sản thiên nhiên: khu bảo vệ được quản lý chủ yếu
cho việc bảo tồn các đặc điểm tự nhiên tiêu biểu.
Định nghĩa: Khu vực có một hay vài đặc điểm tự nhiên, văn hoá đặc
biệt có giá trị nổi bật hay độc nhất về sự quí hiếm, tiêu biểu hay có ý nghĩa
về mỹ thuật và văn hoá
Mục tiêu quản lý:
• Bảo vệ hay bảo tồn vĩnh viễn các đặc điểm nổi bật về thiên nhiên do
tầm quan trọng về thiên nhiên, tính độc nhất hay có ý nghĩa đại diện về
tinh thần
• Theo các mục tiêu đề ra, tạo cơ hội cho nghiên cứu khoa học, giáo
dục, nhận thức và giá trị cộng đồng
89
• Giảm thiểu và sau đó ngăn ngừa việc khai thác hay chiếm cứ trái
ngược với mục tiêu đề ra.
• Phân chia đến mọi cộng đồng các lợi ích phù hợp với các mục tiêu
quản lý.
Hướng dẫn lựa chọn:
• Khu bảo vệ phải chứa 1 hay nhiều đặc điểm nổi bật (thích hợp với điều
kiện tự nhiên như thác nước, hang động, miệng núi lửa, cồn cát, bãi
biển, cùng với các khu hệ động thực vật đặc trưng)
• Khu bảo vệ phải lớn để bảo vệ được tính toàn bộ của các đặc trưng và
vùng liên quan bao quanh
Hạng IV: khu vực quản lý loài/nơi ở: khu bảo vệ được quản lý chủ
yếu cho việc bảo tồn thông qua việc tiến hành một số hoạt động quản lý
của con người.
Định nghĩa: diện tích đất liền hay biển là đối tượng của các hoạt
động can thiệp đối với mục tiêu quản lý để bảo đảm việc duy trì nơi ở hay
đáp ứng các yêu cầu đặc biệt của loài
Mục tiêu quản lý:
• Đảm bảo và duy trì điều kiện nơi ở cần thiết để bảo vệ loài, nhóm loài
hay quần xã sinh học quan trọng; hay các đặc điểm tự nhiên của môi
trường.
• Nghiên cứu khoa học và quản lý môi trường là các hoạt động chủ yếu
liên kết với quản lý tài nguyên bền vững
• Phát triển khu vực cho giáo dục và nhận thức cộng đồng về các đặc
điểm tự nhiên về nơi ở và công việc quản lý động vật hoang dã
• Giảm thiểu và sau đó ngăn chặn việc khai thác quá mức hay chiếm giữ
có hại với mục tiêu đề ra.
• Phân chia lợi ích cho người dân sống trong khu vực phù hợp với các
mục tiêu khác của việc quản lý.
Hướng dẫn lựa chọn:
90
• Khu bảo vệ phải có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thiên nhiên và
sự tồn tại của loài (khu vực sinh sản, đất ngập nước, rạn san hô, vùng
cửa sông, đồng cỏ, )
• Khu bảo vệ phải là nơi mà vấn đề bảo vệ nơi ở là cần thiết cho sự phát
triển của khu hệ thực vật địa phương, quốc gia hay là nơi cư trú đối
với các động vật di cư.
• Sự bảo tồn loài và nơi cư trú phải dựa vào các hoạt động can thiệp của
các nhà quản lý, nếu cần thiết có các hoạt động của con người để tạo ra
nơi cư trú
• Kích thước khu bảo vệ phụ thuộc vào nhu cầu nơi cư trú của loài được
bảo vệ và có thể thay đổi từ nhỏ đến rất lớn
Hạng V: bảo vệ cảnh quan trên đất liền hay biển: khu bảo vệ được
quản lý chủ yếu cho việc bảo tồn cảnh quan và giải trí.
Định nghĩa: diện tích đất liền vùng ven bờ và biển thích hợp, nơi
mà mối tương tác của con người và thiên nhiên quan thời gian đã tạo ra
những đặc điểm riêng biệt có ý nghĩa về thẩm mỹ, sinh thái hay văn hoá
và thường có tính đa dạng sinh học cao
Mục tiêu quản lý:
• Duy trì mối tương tác hài hoà về thiên nhiên và văn hoá qua việc bảo
vệ cảnh quan, tiếp tục sử dụng đất truyền thống, xây dựng các thực
tiễn và các biểu hiện về văn hoá, xã hội
• Hổ trợ các hoạt động kinh tế và lối sống hài hoà với thiên nhiên và bảo
tồn cơ cấu văn hoá xã hội của cộng đồng liên quan
• Duy trì sự đa dạng về cảnh quan và nơi ở và mối liên kết loài và hệ
sinh thái.
• Giảm thiểu và ngăn chặn việc sử dụng đất và các hoạt động không phù
hợp với qui mô hay tính chất.
• Tạo cơ hội thư giãn cho cộng đồng qua giải trí và du lịch với loại hình
và mức độ phù hợp với đặc trưng của khu vực
91
• Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học và giáo dục góp
phần vào sự ổn định lâu dài của các quần thể và sự phát triển của cộng
đồng, hổ trợ cho việc bảo vệ môi trường khu vực
• Tạo phúc lợi cho cộng đồng địa phương qua việc cung cấp các sản
phẩm tự nhiên (như các sản phẩm rừng và nghề cá) và các dịch vụ
(như nước sạch hay thu nhập từ du lịch bền vững)
Hướng dẫn lựa chọn:
• Khu vực bảo vệ có vùng đất liền, vùng bờ hay vùng biển đảo có cảnh
đẹp, đa dạng nơi ở, hệ thực vật, động vật, thể hiện được các mô hình
sử dụng đất độc đáo và truyền thống và các tổ chức xã hội là minh
chứng về sự định cư của con người và các tập tục, lối sống và tín
ngưỡng địa phương
• Khu bảo vệ phải tạo ra cơ hội thư giãn cho công chúng qua giải trí và
du lịch trong lối sống bình thường và các hoạt động kinh tế
Hạng VI: quản lý tài nguyên trong các khu bảo vệ: khu bảo vệ
được quản lý chủ yếu cho việc sử dung bền vững các hệ sinh thái tự nhiên
Định nghĩa: khu bảo vệ chứa các hệ sinh thái chủ yếu không bị
biến đổi, được quản lý để bảo đảm cho việc bảo vệ và duy trì tính đa dạng
sinh học, đồng thời vẫn tạo ra các sản phẩm và các dịch vụ tự nhiên đáp
ứng cho nhu cầu của cộng đồng
Mục tiêu quản lý:
• Bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học và các giá trị thiên nhiên khác
của khu bảo vệ trong thời gian dài
• Khuyến khích các hoạt động quản lý hiệu quả cho các mục tiêu sản
xuất bền vững
• Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên tránh khỏi các mục đích sử dụng đất
khác làm huỷ hoại tính đa dạng sinh học của khu bảo vệ
• Góp phần vào sự phát triển vùng và quốc gia
Hướng dẫn lựa chọn:
92
• Ít nhất 2/3 khu bảo vệ phải ở trong hay qui hoạch trong điều kiện tự
nhiên; không bao gồm khu cây trồng thương mại
• Khu bảo vệ phải đủ lớn để có thể sử dụng bền vững tài nguyên mà
không tạo ra sự suy thoái giá trị thiên nhiên trong thời gian dài
• Phải thành lập chính quyền quản lý.
5.2.1.1. Các khu bảo tồn hiện có
Khu bảo tồn chính thức đầu tiên được hình thành vào ngày 1 tháng
3 năm 1872 khi tổng thống Mỹ, Ulysses Grant chỉ định 800.000 ha ở vùng
đông bắc Wyoming làm Vườn Quốc gia Yellowstone.
Kể từ đó, các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên là
phương thức nổi trội cho việc bảo tồn thiên nhiên, cả về động vật hoang dã
và toàn bộ cảnh quan. Theo danh sách của Liên hiệp quốc về các khu bảo
vệ (UNEP, WCMC 2001), có 12.750 khu bảo vệ trên toàn thế giới, có diện
tích lớn hơn 1.000 ha. Trung tâm Quan trắc Bảo tồn Thế giới (WCMC)
ghi nhận thêm 17.600 khu bảo tồn có diện tích nhỏ hơn tiêu chí tối thiểu
của UN (United Nations) là 1.000 ha, với diện tích thêm vào là 28.500
km
2
. Như vậy, hiện nay có cả thảy là 30.350 khu bảo tồn, với diện tích
13,23 triệu km
2
(Bảng 4.2.) chiếm 8,83% diện tích bề mặt trái đất, trong đó
có 1,3 triệu km
2
là các khu bảo tồn biển. Trong số 191 quốc gia có khu bảo
tồn, 36 quốc gia có khu bảo tồn chiếm 10 - 20% diện tích đất đai, 24 quốc
gia có diện tích các khu bảo tồn lớn hơn 20% diện tích lãnh thổ.
Bảng 4.2. Số lượng và diện tích các khu bảo tồn trên Thế giới
Châu Phi Châu Á
T. B.Dương
Mỹ Latinh
và Caribê
Còn lại trên
thế giới
Tổng
Số khu bảo tồn
Tổng 1254 3706 2362 23.028 30.350
Số khu bảo vệ I-III
(các khu bảo tồn
nghiêm ngặt)
346 944 936 8.478 10,704
Số khu bảo vệ IV-VI 908 2.762 1.426 14.550 19.646
93
(quản lý tài nguyên)
Tỷ lệ số khu bảo tồn
I-III (%)
28% 25% 40% 37% 35%
Diện tích (triệu km
2
)
Tổng diện tích 2.06 1.85 2.16 7.16 13,23
Số khu bảo vệ I-III
(các khu bảo tồn
nghiêm ngặt)
1.21 0.72 1.37 3.82 7.12
Số khu bảo vệ IV-VI
(quản lý tài nguyên)
0.85 1.13 0.79 3.34 6.11
Tỷ lệ số khu bảo tồn
I-III (%)
59% 39% 63% 53% 54%
Nguồn: Pretty (2002)
5.2.1.2. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn
Nếu như các khu bảo tồn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên trái đất thì
hiệu quả bảo tồn các loài của thế giới được đến đâu? Sự tập trung của các
loài thường xảy ra ở những nơi nhất định trong toàn bộ cảnh quan: theo
các độ cao khác nhau, tại những nơi giao nhau của các kiến tạo địa chất,
tại những nơi có tuổi địa chất cao và những nơi có nhiều tài nguyên thiên
nhiên quan trọng. Một vùng cảnh quan thường bao gồm các dãi đất rộng
lớn với cùng một kiểu cư trú và chỉ có một vài khu nhỏ có các kiểu nơi cư
trú thuộc loại hiếm. Trong trường hợp này, việc bảo tồn đa dạng sinh học
có thể sẽ không phụ thuộc quá nhiều vào bảo tồn các vùng đất rộng lớn
với những kiểu cư trú phổ biến mà là phải bảo tồn đại diện của các kiểu cư
trú trong một hệ thống các khu bảo tồn. Các ví dụ sau đây sẽ minh hoạ
hiệu quả tiềm tàng của các khu bảo tồn nhỏ.
Ě Chính phủ Indonesia có kế hoạch bảo vệ các quần thể của những loài
chim và linh trưởng bản địa trong hệ thống các vườn Quốc gia và khu
bảo tồn của nước này. Mục tiêu nói trên sẽ đạt được nhờ vào việc tăng
diện tích các khu bảo tồn từ 3,5% lên 10% so với tổng diện tích đất đai
của cả nước.
94
Ě Tại hầu hết các quốc gia nhiệt đới lớn vùng Châu phi, đa số quần thể
của các loài chim bản địa là là nằm trong các khu bảo tồn (bảng 4.3.).
Ví dụ Zaia có trên 1000 loài chim, thì 89% số loài xuất hiện trong các
khu bảo tồn với diện tích chỉ chiếm 3,9% tổng diện tích đất đai của cả
nước.
Ě Một ví dụ điển hình về vai trò của các khu bảo tồn nhỏ đó là Vườn
Quốc gia Santa Rosa ở vùng Tây Bắc Costa Rica. Vườn này chỉ chiếm
0,2 diện tích của Costa Rica song nó đã chứa tới 55% số lượng các
quần thể của 135 loài bướm đêm của nước này. Những ví dụ trên đã
cho thấy rõ rằng những khu bảo tồn được lựa chọn cẩn thận thì có thể
nuôi dưỡng và che chở cho rất nhiều, nếu không nói là hầu hết, các loài
của một quốc gia.
5.2.1.3. Những tồn tại của các khu bảo tồn
Mặc dù đã có những hiệu quả nhất định, các khu bảo tồn hiện nay
trên thế giới vẫn còn một số hạn chế như sau:
• Hầu hết các khu bảo tồn có diện tích nhỏ, khó để duy trì sự sống còn
của các quần thể động vật có xương sống kích thước lớn. Để hạn chế
điều đó, có thể xây dựng các hành lang để liên kết các khu bảo tồn với
nhau. Tuy vậy, trong thực tế chỉ có một số ít khu bảo tồn có các hành
lang liên kết, còn phần lớn vẫn chưa thực hiện được do vấn đề này vẫn
còn nhiều tranh cải. Lợi ích của các hành lang cư trú bao gồm việc gia
tăng tỷ lệ di cư, nhập cư; bất lợi bao gồm sự gia tăng hoả hoạn, dịch
bệnh, vật dữ và làm giảm sai khác di truyền trong quần thể.
• Các khu bảo tồn có xu hướng nghiêng về các vùng đất có giá trị kinh
tế thấp, ít có sự tranh chấp về việc sử dụng đất và các đơn vị hành
chính. Kết quả là các khu bảo tồn này không đại diện đầy đủ cho các
hệ thực vật tự nhiên hay sự xuất hiện của loài. Các mô hình về sự thay
đổi vùng phân bố của loài từ chính lý do này sẽ càng trầm trọng thêm
cùng với sự thay đổi khí hậu (Erasmus, 2002).
• Trong thực tế nhiều khu bảo tồn hoạt động rất ít hay hầu như không
hoạt động (các “khu bảo tồn giấy”). Ví dụ như ở khu bảo tồn Kronne
Ejland ở Greenland được công nhận là vùng đất ngập nước theo công
ước Rammar vào năm 1987, liên quan đến việc bảo vệ quần thể loài
nhạn biển lớn nhất thế giới Sterna paradisaea (ước tính khoảng 50.000
đến 80.000 đôi). Mục tiêu này đã không đạt được bất kỳ ý nghĩa thực
95
tế nào và vào mùa hè 2000 không một đôi nhạn biển nào còn sót lại
(Hanson, 2002). Tính hiệu quả của một số khu bảo tồn khác vẫn còn
nhiều tranh luận, điều đó phụ thuộc nhiều vào các hoạt động quản lý.
Ngân quỹ của các hoạt động bảo tồn trên thế giới vẫn còn chưa đầy đủ.
Hiện nay ngân quỹ cho các khu bảo vệ toàn cầu là 6 tỷ USD, so với
2,1 tỷ USD cho việc thay thế tàu con thoi vào năm 1991; 6 tỷ USD để
giải quyết những thiệt hại về tài sản từ cơn lốc Floyd vào năm 1999;
15 USD tỷ cho việc đặt hàng máy bay chiến đấu của chính phủ Anh và
50 tỷ USD hàng năm dùng vào việc cải tiến các chế độ ăn kiêng trên
toàn thế giới.
• Mạng lưới khu bảo tồn hiện nay còn quá nhỏ. IUCN 1993, chủ trương
rằng ít nhất 10% diện tích của mỗi quốc gia phải được bảo tồn. Việc
mở rộng mạng lưới các khu bảo tồn toàn cầu để đáp ứng mục tiêu 15%
diện tích cần phải tiêu tốn từ 20 đến 28 tỷ USD/năm. Trên thực tế,
ngay cả khi đạt được 15% diện tích thì vẫn chưa đủ đại diện cho tất cả
các loài, đặc biệt trong vùng nhiệt đới. Cần phải có tỷ lệ lớn hơn để có
thể đáp ứng cho các quốc gia có các mức độ cao về độ phong phú loài
và tính đặc hữu (Rodrigues & Gaston 2001). Diện tích giành cho các
khu bảo tồn biển còn thấp hơn nhiều (0,5% diện tích dại dương) mặc
dù các lợi ích của các khu bảo tồn biển rất to lớn về đa dạng sinh học
bên trong và bên ngoài các khu bảo tồn này cũng như việc khai thác về
sau.
• Mạng lưới bảo tồn hiện có được hình thành theo nguyên tắt hơi tĩnh,
không đáp ứng được với những sự thay đổi về vùng phân bố của loài
do sự thay đổi khí hậu. Sự thay đổi khí hậu là nguyên nhân gây ra sự
thay đổi vùng phân bố của loài, điển hình là sự mở rộng dọc theo
phạm vi ranh giới vùng này và thu hẹp ở các vùng khác. Tuy nhiên,
khi các khu bảo tồn trở thành các vùng biệt lập về hệ thực vật tự nhiên
do môi trường biến đổi, thường cách biệt với các khu vực khác bởi
một khoảng cách tương đối xa, thì khả năng di chuyển của loài trở nên
càng hạn chế.
5.2.2. Các thỏa thuận Quốc tế
Các công ước quốc tế về nơi cư trú sẽ bổ trợ cho các công ước về
loài. Ba trong số các công ước quan trọng nhất là Công ước Ramsar về các
vùng đất ngập nước, Công ước về bảo vệ các Di sản Văn hoá thiên nhiên
Thế giới và Chương trình Bảo tồn Sinh quyển của UNESCO.
96
⇒ Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước ra đời năm 1971
nhằm ngăn ngừa việc tiếp tục phá hủy các vùng đất ngập nước, đặc biệt là
những vùng có nhiều loài chim nước di cư qua lại và nhằm công nhận các giá
trị về sinh thái, khoa học, kinh tế, văn hoá và giải trí của các vùng đất ngập
nước. Công ước này đề cập tới những nơi cư trú như các thủy vực nước ngọt,
cửa sông và ven biển gồm 590 địa điểm với tổng diện tích trên 37 triệu ha. 61
quốc gia đã ký kết nhất trí bảo tồn và gìn giữ các nguồn đất ngập nước của
mình và sẽ chỉ định ít nhất một vùng đất ngập nước có ý nghĩa quốc tế để bảo
tồn.
⇒ Công ước bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới có
liên quan đến UNESCO, IUCN và Hội đồng quốc tế về địa danh và di sản.
Công ước này đã nhận được sự ủng hộ cực kỳ rộng rãi. Với sự tham gia
của 109 nước, công ước này được coi là một trong số những công ước về
bảo tồn được tham gia đông đảo nhất. Mục tiêu của công ước này là để
bảo vệ các vùng thiên nhiên có ý nghĩa quốc tế thông qua chương trình
Địa danh Di sản Thế giới. Công ước này ưu việt ở chỗ nó thừa nhận rằng
cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ hỗ trợ về tài chánh cho những nơi này.
⇒ Năm 1971, chương trình con người và sinh quyển của UNESCO
(MAB) đã xây dựng mạng lưới quốc tế về các khu bảo tồn sinh quyển. Các
khu bảo tồn sinh quyển được thiết kế thành những mô hình chứng minh sự
tương ứng giữa bảo tồn và phát triển bền vững vì quyền lợi của người dân
địa phương. Tới năm 1994, đã có tất cả 312 khu bảo tồn sinh quyển được ra
đời tại hơn 70 nước, chiếm tổng cộng khoảng 1,7 triệu km
2
.
5.2.3. Thiết kế các khu bảo tồn
Kích thước và vị trí của các khu bảo tồn trên khắp thế giới được
xác định qua sự phân bố dân cư, các giá trị tiềm tàng của đất đai và các nỗ
lực chính trị của những công dân có ý thức bảo vệ. Mặc dù hầu hết các
vườn quốc gia và các khu bảo tồn đều ra đời theo kiểu ngẫu nhiên và hoàn
toàn phụ thuộc vào sự có sẵn của đất đai và kinh phí, song đã có rất nhiều
tài liệu về sinh thái học đề cập đến những cách thiết kế về các khu bảo tồn
có hiệu quả nhất nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Các nhà sinh học bảo tồn
đã thận trọng trong việc đưa ra các hướng dẫn chung và đơn giản trong
việc thiết kế các khu bảo tồn bởi vì mọi tình huống bảo tồn đều đòi hỏi sự
quan tâm đặc biệt. Những câu hỏi then chốt mà các nhà bảo tồn cố gắng
giải quyết là:
97
• Một khu bảo tồn cần rộng đến mức nào để bảo tồn được loài?
• Tạo ra một khu bảo tồn lớn tốt hơn hay tạo ra nhiều khu bảo tồn nhỏ
tốt hơn?
• Cần phải bảo vệ trong khu bảo tồn bao nhiêu cá thể của một loài nguy
cấp là đủ để ngăn cho loài đó khỏi bị tuyệt diệt?
• Hình dạng hợp lý nhất cho một khu bảo tồn thiên nhiên là hình gì?
• Khi một số khu bảo tồn được hình thành, chúng nên nằm gần nhau hay xa
nhau, và chúng nên biệt lập với nhau hay là nên liên hệ với nhau qua
những đường hành lang?
5.2.3.1. Kích thước của khu bảo tồn
Các nhà bảo tồn đã tranh luận là liệu sự giàu có về loài sẽ đạt được
giá trị cực đại trong một khu bảo tồn thiên nhiên rộng lớn hay trong tập hợp
các khu bảo tồn nhỏ có tổng kích thước tương ứng? Trong các tài liệu, vấn đề
trên được gọi là “cuộc tranh luận SLOSS” (Single Large Or Several Small).
Ví dụ nên thành lập một khu bảo tồn có diện tích 10.000 ha hay là nên thành
lập bốn khu bảo tồn với diện tích 2.500 ha mỗi khu?
Những người theo quan điểm khu bảo tồn lớn cho rằng chỉ có
những khu bảo tồn lớn mới có thể chứa đủ số lượng các loài có kích thước
lớn, có phạm vi hoạt động rộng và mật độ thấp (ví dụ các loài thú ăn thịt)
để duy trì quần thể của chúng lâu dài. Đồng thời một khu bảo tồn lớn cũng
sẽ giảm bớt được hiệu ứng vùng biên, chứa đựng nhiều loài hơn và có tính
đa dạng nơi cư trú hơn. Những người cực đoan theo quan điểm này còn
cho rằng không nên duy trì các khu bảo tồn nhỏ bởi vì các khu này không
có khả năng hỗ trợ lâu dài cho các quần thể, do đó giá trị của chúng cho
các mục đích bảo tồn là rất ít.
Ngược lại với quan điểm trên, các nhà bảo tồn khác cho rằng các
khu bảo tồn nhỏ được lựa chọn tốt có khả năng chứa đựng nhiều kiểu hệ
sinh thái cũng như quần thể của các loài quí hiếm hơn là một khu vực rộng
lớn có diện tích tương đương. Đồng thời việc tạo ra nhiều khu bảo tồn,
dẫu cho chúng có diện tích nhỏ đi nữa, cũng sẽ tránh cho quần thể khỏi bị
hủy diệt toàn bộ khi xảy ra sự cố như dịch bệnh, cháy rừng, hay sự xâm
nhập của các loài ngoại lai. Ngoài ra các khu bảo tồn nhỏ nằm gần các khu
98
dân cư sẽ là những trung tâm nghiên cứu và giáo dục lý tưởng về bảo tồn
thiên nhiên.
Cho đến nay, sự thống nhất về kích thước khu bảo tồn có vẻ thiên về
chiến lược là tuỳ thuộc vào nhóm loài cần được bảo tồn cũng như điều kiện
khoa học. Điều được thừa nhận là những khu bảo tồn lớn sẽ có khả năng hơn
những khu bảo tồn nhỏ trong việc gìn giữ các loài khác nhau bởi vì nó có thể
chứa đựng nhiều kiểu hệ sinh thái và những quần thể kích thước lớn. Tuy
nhiên, những khu bảo tồn nhỏ nếu được quản lý tốt thì cũng có giá trị, đặc
biệt trong trường hợp bảo tồn các loài cây, các loài động vật không xương
sống và những loài động vật có xương sống nhỏ. Trên thực tế, ít có khả năng
lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận phải bảo tồn các loài trong những
khu bảo tồn nhỏ bởi vì xung quanh các khu bảo tồn nhỏ không còn thừa đất
để sử dụng vào mục đích bảo tồn.
5.2.3.2. Sinh thái học cảnh quan
Mối quan hệ tương hỗ giữa các phương thức sử dụng đất thực tế và
lý thuyết về bảo tồn được thể hiện rõ trong nguyên lý sinh thái học cảnh
quan. Sinh thái học cảnh quan nghiên cứu các kiểu nơi cư trú ở qui mô
vùng và ảnh hưởng của chúng đến sự phân bố của loài và các quá trình
sinh thái. Theo định nghĩa của Forman và Godron (1986), cảnh quan là
một vùng mà tại đó một nhóm các hệ sinh thái được lặp lại theo cùng một
kiểu hình.
Sinh thái học cảnh quan có tầm quan trọng trong việc bảo vệ tính
đa dạng sinh học vì nhiều loài không chỉ sống trong giới hạn của một nơi
cư trú mà chúng còn di chuyển giữa các nơi cư trú hoặc là sống tại vùng
giáp ranh giữa hai nơi cư trú. Đối với các loài này, loại hình của các kiểu
nơi cư trú trên qui mô vùng là đặc biệt quan trọng. Sự tồn tại và mật độ
của nhiều loài có thể bị ảnh hưởng bởi kích thước của nơi cư trú và mức
độ liên kết của chúng. Các cảnh quan có thể được liên kết với nhau thông
qua các hành lang. Các hành lang có thể là tự nhiên hoặc là kết quả của
các nhiễu động của con người đối với đất nền canh tác (ví dụ như một dãi
đất còn lại không bị cày xới giữa hai cánh đồng). Cấu trúc của hành lang
có thể rất hẹp như các hàng rào, rộng hơn như hàng cây chắn gió, hoặc là
các hệ thực vật ven sông. Có 5 loại hành lang:
Hành lang môi trường (environmental corridors): là kết quả của hệ
thực vật phản ứng với môi trường như là hệ thực vật ven sông, theo loại
99