Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Điểm lại sự tồn vong của các đế quốc trên thế giới ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.16 KB, 6 trang )

Điểm lại sự tồn vong của các đế
quốc trên thế giới


Trong kỷ nguyên hiện đại của các quan hệ đối ngoại, rất khó tưởng
tượng việc một chính quyền đơn lẻ kiểm soát hầu hết thế giới. Tuy
nhiên, mãi cho tới gần đây, vào thế kỉ 20, trên thế giới vẫn còn những
siêu cường mà lãnh thổ trải khắp một hoặc nhiều lục địa và con đường

Đế quốc La Mã (năm 27 trước Công nguyên - năm 476 sau Công
nguyên):Người La Mã là lãnh đạo trong hầu hết các lĩnh vực: quân sự,
chính quyền, ngôn ngữ và văn hoá. Tuy nhiên, trong suốt thế kỉ 4 sau
Công nguyên, những cuộc chinh phạt lặp đi lặp lại của các nước bên
ngoài đã gây mất ổn định Đế chế Tây La Mã. Ngược lại, Đế chế Đông La
Mã tiếp tục giành được sự thịnh vượng và quyền lực từ các mạng lưới
buôn bán của họ. Không thể cùng tồn tại, hai bên cuối cùng đã chia rẽ.



Đế quốc Khmer (802-1431): Các lãnh đạo Khmer đã xây dựng sự phồn
thịnh dựa trên việc khai thác triệt để các nguồn tài nguyên giàu có của
Đông Nam Á. Trung tâm và cũng là thành phố thủ phủ của đế quốc đặt
tại Angkor, nơi các hệ thống tưới tiêu nhân tạo đã dẫn nước tới các
cánh đồng lúa và nông trại khắp lãnh thổ. Các nguyên nhân đằng sau sự
sụp đổ của Angkor hiện vẫn chưa rõ nhưng có một sự thực là đế quốc
đã sụp đổ khi trung tâm kỹ thuật của nó tan rã.

Đế quốc Byzantine (962-1461): Còn được biết đến như Đế chế La Mã
thần thánh, Đế quốc Byzantine thành công bởi vì các lãnh đạo của nó có
thể kết hợp quyền lực chính trị của Đế quốc La Mã với sự thống trị tinh
thần của Nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã. Chiến lược đó đã phát huy


hiệu quả suốt gần 500 năm nhưng mâu thuẫn nội bộ đã gây tổn thất
cho đế chế. Và cuối cùng, Đế quốc Byzantine sụp đổ khi người Ottoman
xâm chiếm vào cuối thế kỉ 15.


Đế quốc Mông Cổ (1206 - 1368): Người Mông Cổ, dưới sự dẫn dắt của
hàng loạt các lãnh đạo quân sự hùng mạnh (kể cả nhân vật Thành Cát
Tư Hãn gây nhiều tranh cãi), đã có thể dùng vũ lực mở rộng bờ cõi, thâu
tóm một diện tích rộng lớn ở châu Á và gặt hái vô vàn lợi ích kinh tế.
Tuy nhiên, cũng giống như những quốc gia tồn tại trước đó, đế quốc đã
trở thành nạn nhân của bất ổn và xung đột chính trị nội bộ. Tinh thần
quả cảm trong chiến đấu không đủ để giữ cho đế quốc Mông Cổ tránh
khỏi sự sụp đổ vào thế kỉ 14.

Đế quốc Ottoman (1299 - 1922): Vì người Thổ Nhĩ Kỳ đã hợp nhất một
loạt các tôn giáo và dân tộc vào đế quốc Ottoman của mình nên họ có
thể giữ cho lãnh thổ gần như luôn ổn định suốt hơn 600 năm. Tuy
nhiên, chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân dẫn tới sự suy vong của đế
chế: khi các quốc gia chấu Âu bắt đầu tuyên bố độc lập vào thế kỉ 20 thì
chính phủ nợ nần chồng chất và kém hiện đại hoá đã không thể kiểm
soát được chúng nữa.

Đế quốc Inca (1438 - 1535):

Người Inca lớn mạnh nhờ một chính quyền có tổ chức và kỉ luật cùng
các hệ thống nông nghiệp và kỹ thuật phức tạp. Tuy nhiên, cuộc chiến
giành quyền lực khốc liệt trong tầng lớp ưu tú đã khiến những kẻ xâm
lược Tây Ban Nha dễ dàng tiến công và nắm quyền kiểm soát đế quốc.
Kỹ thuật tiên tiến của người Inca, kể cả một mạng lưới đường sá, đã
khiến công việc của người Tây Ban Nha thậm chí dễ dàng hơn.




Đế quốc Mughal (1526 - 1858):

Đế quốc này đã đổi mới vào thời của nó. Các chính sách như khoan
dung về tôn giáo và hôn nhân khác chủng tộc với tầng lớp chiến binh
Hindu đã giúp duy trì sự ổn định trong một đế chế trải dài gần khắp tiểu
lục địa Ấn Độ. Tuy nhiên, các cuộc nổi dậy sau này của người dân đã
dẫn tới sự diệt vong của đế quốc.

Đế quốc Anh (1583 - 1997):

Các thuộc địa sinh lời cùng một quân đội áp đảo đã mang lại cho người
Anh sức mạnh vô địch ở khu vực châu Mỹ. Thậm chí ngay cả sau khi
mất các thuộc địa ở châu Mỹ, đế quốc thương mại đã mở rộng xa tới
tận Ấn Độ và Trung Quốc. Mặc dầu vậy, sau Thế chiến thứ hai, những
tổn thất to lớn về tài chính và thảm hoạ về quân sự cũng như thất bại
trong nỗ lực xâm chiếm kênh đào Suez, đã báo hiệu sự diệt vong của đế
quốc. "Mặt trời cuối cùng cuối cùng cũng lặn" ở Đế quốc Anh vào năm
1997 khi Hồng Kông được trao trả cho Trung Quốc.

Triều đại nhà Thanh (1644 - 1912): Còn được biết tới như triều đại Mãn
Châu, các vua chúa nhà Thanh đã áp đặt những luật lệ hà khắc nhằm
buộc các tộc người Hoa khác phải quy phục. Triều đại này của họ được
đánh dấu bằng sự tàn bạo và kiểm duyệt gắt gao. Tuy nhiên, vào đầu
thế kỉ 20, không còn chính quyền trung ương đàn áp, các cuộc khởi
nghĩa quy mô lớn của người dân vốn đã bắt đầu lan khắp cả nước. Chủ
nghĩa bè phái của các tướng cuối cùng đã chia rẽ đế quốc.


Đế quốc Nga (1721 - 1917):

Peter Đại đế đã giúp Nga trở thành một trong 5 thế lực vĩ đại của châu
Âu thông qua việc thúc đẩy các thần dân hiện đại hoá và mở rộng tầm
với toàn cầu. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự ngày càng thu hẹp của đế
quốc cùng với thất bại trong cuộc chiến Nga - Nhật, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho những người Mác xít thắng thế và tiến vào một kỷ nguyên
mới của đảng Cộng sản lãnh đạo.

Đế quốc của Napoleon (1804 - 1814):

Sự lãnh đạo quân đội đầy tài năng và tham vọng của Napoleon đã giúp
người Pháp chinh phục được một dải đất rộng lớn ở châu Âu và chiếm
đóng đa số phần còn lại. Tuy nhiên, sự ngạo mạn của Napoleon cuối
cùng đã phản lại ông: những tổn thất trên bán đảo Iberia, cuộc chinh
phạt thảm khốc vào nước Nga và thất bại lừng danh trong trận chiến
Waterloo đã dẫn ông tới việc phải thoái vị, để đế quốc tan rã.

Mỹ (1776 - ?):

Mặc dù Mỹ không thực sự là một đế quốc nhưng nước này vẫn tự hào
là nắm giữ một vị thế thống trị thế giới thông qua những ý tưởng, sức
mạnh quân sự, thương mại, công nghiệp, giáo dục và công nghệ. Tuy
nhiên, khi Trung Quốc và Ấn Độ đang trên đà tiến lên thì Mỹ phải đối
mặt với những thách thức nghiêm trọng và địa vị đứng đầu của nước
này trên trường quốc tế đang lung lay. Nỗi e sợ về việc Mỹ đánh mất
quyền lực đã trở thành một chủ đề chính trong văn học và chính trị
trong vài thập kỉ qua.

×