nước ta trong cơ chế thị trường cần được khắc phục sớm bằng mọi biện pháp và khả
năng vốn có của nước ta.
b. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn nhân lực.
Nhìn rõ được thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để chúng ta phát huy những
điểm mạnh , khắc phục và hạn chế những điểm yếu đồng thời đưa ra được những yêu
cầu đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực . Một mặt phải trực tiếp giải quyết vấn
đề về chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn kĩ thuật,
mặt khác phải giải quyết vấn đề nâng cao thể lực người lao động và phân phối nguồn
nhân lực một cách hợp lý. Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù
chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các
bậc cao hơn nhưng phải tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng cao, đặc biệt
phải chú trọng đào tạo lao động kĩ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của những ngành công
nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
Trước tiên , việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nhưng cố gắng mở
rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kip được tốc độ gia tăng dân
số. Quy mô mọi ngành , bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng được yêu cầu theo học của
mọi lứa tuổi. Nhìn chung số học sinh và số trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo ,
các cấp phổ thông , trung học chuyên nghiệp , cao đẳng , đại học đều tăng . Các hệ
thống trung tâm xúc tiến việc làm, các trung tâm kĩ thuật tổng hợp , hướng nghiệp và
nhiều cơ sở dạy nghề bán công , dân lập, tư thục được thành lập. Quy mô đào tạo có
chuyển biến là nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn. Riêng đối với quy mô của
hệ thống đào tạo nghề ngày càng bị thu hẹp. Đảng và Nhà nước cần có chính sách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khuyến khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh
viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học , bậc học của giáo dục đào tạo.
Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng về thể
lực và trí lực cho nguồn nhân lực . Giáo dục phổ thông , đặc biệt là giáo dục tiểu học
theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng
nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ kĩ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển , giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên , những bất cập giữa các ngành đào
tạo , giữa các bậc học đ• gây khó khăn không ít cho sự phát triển của nền kinh tế. Một
số ngành được học sinh , sinh viên theo học như một phong trào, một số ngành thì rất
ít người theo học. Nếu không có sự điều chỉnh kịp thời , Việt nam sẽ nhanh chóng gặp
phải khó khăn về đội ngũ kĩ sư, công nhân kĩ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất là ở
Thái Lan.
Giáo dục đào tạo ở thành phố , đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở nông thôn ,
vùng núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy , việc giáo dục đào tạo con người ở những vùng
này rất khó khăn.Để nâng cao trình độ của nguồn nhân lực ở các vùng nông thôn ,
vùng sâu vùng xa, miền núi, Nhà nước đã có chính sách cấp học bổng , giảm học phí ,
ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó. Từ đó giúp họ có điều kiện học tập, tìm kiếm
việc làm, nâng cao mức sống. Chính nhờ những chủ trương đúng đắn này mà những
bất hợp lí trong cơ cấu vùng, miền của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực được điều
chỉnh phần nào.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi mới mục tiêu
, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh
kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường thế giới, từ đó đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao và khả năng sử dụng
tương ứng các công nghệ đó . Ngoài giáo dục đào tạo văn hoá chuyên môn , nghiệp vụ
về mặt lí thuyết , cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng , giáo dục kĩ luật, tác phong
lao động công nghiệp , rèn luyện kỉ năng và những khả năng thích ứng của người lao
động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Song song với vấn đề giáo dục,
đào tạo con người, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, sức khoẻ, để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực , giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục .
Trong điều kiện của Việt nam hiện nay , yêu cầu đa dạng hoá các loại hình giáo dục
đào tạo rất cần thiết để bổ sung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực nhằm khắc phục
những bất hợp lí về việc phân bổ nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu
tư cho giáo dục đào tạo để phục vụ cho nhu cầu phát triển . Trong lĩnh vực giáo dục
hướng nghiệp, chúng ta cần phải kết hợp một cách khoa học giữa kế hoạch phát triển
toàn diện với chính sách sử dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lảng phí về chi phí giáo
dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra được làm việc đúng
ngành , đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của mình. Ngoài ra, giáo dục hướng
nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để xác định được xu hướng phát
triển và nhu cầu về lao động trong từng giai đoạn. Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn
là cơ sở để hình thành nên bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao, có kỹ năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, hiện đại. Ngoài ra, cần mở rộng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và
nhanh chóng nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục tại
chức và từ xa cần chú ý hơn đến chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Việc sử dụng tốt hơn, phân bổ hợp lý hơn nguồn lực đã có, đa dạng hoá và khai thác
mọi nguồn lực khác cho giáo dục đào tạo là rất cấp thiết. Nguồn tài chính hạn hẹp hiện
được coi là thách thức lớn nhất đối với hệ thống đào tạo nghề.
Tóm lại, Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đổi
mới, xây dựng đất nước. Mặc dù nền giáo dục đào tạo đã đạt được nhiều thành tích to
lớn ( Việt Nam có chỉ số HDI tương đối cao, được xếp vào các nước có trình độ phát
triển trung bình.) nhưng so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, nền giáo dục đào tạo
của nước ta vẫn chưa đáp ứng được.
Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích và những đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà Nước đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta.
C.ý kiến cá nhân.
1. Việt Nam trong dòng chảy chung của thời đại .
Hướng tới một nền kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu của thời đại. Trong thế kỉ 20,
chúng ta đã từng biết đến nền kinh tế thị trường, nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế
hỗn hợp với những công cụ phân phối đặc trưng và phương thức giải quyết vấn đề kinh
tế của chúng. Tiêu điểm của nền kinh tế tri thức , không giống hai loại hình kinh tế
trên, nhấn mạnh vào động lực phát triển của xã hội trong thời đại mới . Nền kinh tế
hiện đại không chỉ được xây dựng trên cơ sở tài sản vật chất và nguồn nhân lực mà
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
quan trọng hơn phải được đặt nền móng ở khả năng học học tập, tiếp thu và thích nghi
của mọi thành viên của nó nhằm thích ứng với môi trường toàn cầu liên tục phát triển
và đầy biến động.
Vấn đề cốt tử của Việt nam hiện nay để xây dựng nền kinh tế dựa trên tri thức là giáo
dục. Nừu chúng ta không cải cách giáo dục mạnh mẽ thì người dân sẽ không đủ trình
độ để hiểu và xử lí thông tin kịp thời , không đủ khả năng bắt kịp các luồng thông tin
ào ạt như thác lũ trên mạng INTERNET và sẽ không tìm được kẻ hở trên thị trường thế
giới cho hàng hoá Việt nam. Nhất thiết chúng ta phải xây dựng được một nền giáo dục
tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước;Nhưng để xây
dựng được một nền giáo dục như thế, cần phải có những chính sách xã hội hỗ trợ cho
nền giáo dục đào tạo, trong đó giải quyết việc làm và vấn đề tiền lương là những vấn
đề quan trọng.
2 Việc làm của người lao động và vấn đề đổi mới chính sách tiền lương.
a.Việc làm của người lao động.
Nói đến việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động là nói đến vấn
đề bức thiết và mục đích của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội . Việc giáo dục và đào
tạo nguồn nhân lực phải được đi đôi với việc giải quyết việc làm cho người lao động,
có tạo được cho người lao động việc làm ổn định và mức thu nhập tương xứng thì mới
tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội .
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất. Mác-Ănghen đã khẵng định: “Lao
động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất…là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống loài người.” Lao động là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
quyết việc làm cho lao động xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển .
Bên cạnh việc kết hợp các giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất, thực hiện các
chương trình các kinh tế xã hội lớn, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, Nhà
nước đã thực hiện các giải pháp hỗ trợ , tác động vào những người chưa có việc làm
hoặcthất nghiệp, thiếu việc làm để họ có thêm cơ hội có việc làm.Các mô hình kinh tế
hợp lý, như mô hình V-A-C, hình thức giao đất giao rừng … được nhân rộng ở nhiều
nơi. Bên cạnh đó, Nhà Nước còn có các chính sách khuyến khích người dân tự làm
giàu cho chính mình, cho gia đình và cho xã hội. Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999
đánh dấu một bước phát triển mới, một bước ngoặt thuận lợi cho các doanh nhân Việt
Nam; Làm giàu chính đáng là tiêu chí của nhiều cuộc hội thảo, là mục đích của nhiều
chủ trương, chính sách, là động lực của nhiều người dân Việt Nam cần cù, thông minh.
Với nền kinh tế vận động theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà Nước luôn đặt hiệu
quả xã hội và hiệu quả kinh tế lên hàng đầu. Hiệu quả kinh tế phải đi đôi với hiệu quả
xã hội, trong đó việc tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân được chú
trọng nhất; dự án xây dựng khu công nghiệp Dung Quất ở miền Trung khắc nghiệt, dự
án mở đường mòn Hồ Chí Minh… là những chính sách, biện pháp hợp lý đã lấy hiệu
quả xã hội đặt lên hàng đầu.
Giải quyết việc làm là kết quả tổng hợp của sự phát triển sản xuất, của việc thực hiện
các chương trình kinh tế, xã hội và các giải pháp hỗ trợ trong đó việc phát triển sản
xuất, tăng trưởng kinh tế là tiền đề , điều kiện cơ bản nhất là từ những kết quả bước
đầu về giải quyết việc làm cho người lao động xã hội trong thời gian qua là rất đáng
khích lệ. Tuy nhiên, thực tiễn khách quan cũng cho thấy điều kiện tạo ra việc làm chưa
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
vững chắc, nhiều yếu tố khác nảy sinh làm cho thực trạng lao động việc làm thêm khó
khăn phức tạp . Tỉ lệ thất nghiệp ở các đô thị nước ta vào loại cao so với các nước
trong khu vực và có xu hướng tăng. Chất lượng lao động thấp, chỉ có gần 19% lao
động qua đào tạo chuyên môn , kĩ thuật . Cơ cấu lao động kĩ thuật bất hợp lí, chưa đáp
ứng được yêu cầu của nền kinh tế và càng bất cập trước yêu cầu lao động kĩ thuật cao
cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Việc phân bố lao động theo
ngành còn nhiều bất hợp lí. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm . Lực
lượng lao động phân bố không đồng đều chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu
phát triển của các vùng. Và một điều quan trọng nữa đó là công tác quản lí lao động
theo ngành và theo l•nh thổ bất cập so với yêu cầu, chưa giám sát được sự vận động
của thị trường lao động . Hiện nay, ở thủ đô Hà Nội cũng như ở nhiều thành phố lớn
khác, các chợ lao động với nguồn nhân lực chủ yếu là những nông dân ở vùng nông
thôn, đang là vấn đề nan giải. Chúng ta cần phải sáng tạo nhiều hình thức kinh tế làm
ăn có hiệu quả nhằm tăng thêm thu nhập cho ngươì lao động tận dụng được quỹ thời
gian trong những ngày nông nhàn.
b.Vấn đề đổi mới chính sách tiền lương.
Tiền lương về thực chất là khoản thù lao nhà nước trả cho cán bộ , công chức tương
xứng với lao động và trình độ nghiệp vụ, chức trách để thực hiện những công việc mà
nhà nước uỷ quyền cho họ.
Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công chức, trước hết phải
quan niệm đúng đắn về gía trị sức lao động . Đó là toàn bộ những chi phí cần thiết về
ăn , mặc, ở, đi lại…v v bù đắp cho một lượng nhất định về cơ bắp, trí tuệ đã hao phí
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường đồng
thời tái sản xuất ra sức lao động cả về số lượng và chất lượng trong những điều kiện
kinh tế xã hội ổn định. Do đó , khi đồng tiền mất gía, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì
tiền lương danh nghĩa phải được điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền
lương thực tế cho người lao động. Mới đây chính phủ đã quyết định tăng 20% lương
cơ bản cho công nhân viên chức, đây là một điều đáng mừng, khích lệ tinh thần làm
việc và hiệu quả lao động của công nhân viên chức. Đồng thời , trong phiên họp
thường kì vào tháng 6 năm 1999 chính phủ cũng đã đưa ra một hệ thống các giải pháp
nhằm đảo đảm sự phát triển ổn định của tình hình kinh tế xã hội và các giải pháp
chống thiểu phát (tức là lưu thông luôn thiếu tiền dẫn đến giá cả hàng hoá , dịch vụ
giảm xuống một cách phổ biến trong khi tiền giấy trong kho bạc nhà nước lại đầy ắp .)
, thiết lập quan hệ giá cả thị trường hợp lí , kích thích sản xuất phát triển . Từ đó ta cần
sửa đổi , hoàn thiện thang, bảng lương cho cán bộ công chức nhà nước và chế độ phụ
cấp đồng thời sắp xếp , hoàn thiện tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ công chức bảo
đảm các yêu cầu tinh gọn, hiệu lực , hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ , công chức
hưởng lương nhà nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng dần lương tối thiểu chung
cho cán bộ, công chức nhà nước. Trước mắt cần có sự đột phá, khắc phục sự lạc hậu và
bất hợp lí của chính sách tiền lương tối thiểu hiện hành.
Hiện nay trong giới sinh viên đang có tình trạng đổ xô đi làm cho công ty nước ngoài ,
lí do chủ yếu là vì mức lương ở các công ti này rất cao, nhưng một lí do nữa cũng
không kém phần quan trọng đó là do những sinh viên giỏi không có khả năng kinh tế
để xin vào các công ty nhà nước. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho vấn đề này. Thứ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -