Công nghệ nano và triển vọng ứng dụng trong 
công nghiệp dầu khí 
(H2N2)-Công nghệ nano – 
một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu, nền tảng cho sự phát 
triển của tất cả các ngành kinh tế có hàm lượng khoa 
học cao của xã hội sau công nghiệp. Người ta cho 
rằng cho đến nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách 
mạng: Cuộc cách mạng đầu tiên – thuần thục gia súc 
và đã học được gieo hạt, và lần thứ hai là cuộc cách 
mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng thứ ba – công 
nghệ nano, bắt đầu thế thế kỷ 21 có quy mô lớn hơn 
hai cuộc cách mạng trước. Cần biết rằng, kích thước 
của nó bằng một phần tỉ của mét, có nghĩa là chúng ta 
đã tiếp cận đến kích thước nguyên tử. Thực ra, 100 
năm trước đây chúng ta đã biết và đã nhìn thấy các 
nguyên tử riêng lẻ, nhưng ngày nay chúng ta không 
chỉ nhìn thấy, giám sát mà còn có thể điều khiển 
chúng. 
Thực tế hầu hết những sáng kiến trong công nghiệp 
dầu mỏ lần đầu tiên được áp dụng tại Baku 
(Azecbaizan). Và không phải ngẫu nhiên tại Baku đã 
từng phát hiện các mỏ mới, được gọi “Baku thứ hai”, 
“Baku thứ ba”, v.v… 
Sau 160 năm kể từ khi lần đầu tiên trên thế giới giếng 
khoan được thi công bằng phương pháp cơ khí thì 
hiện nay trong ngành khai thác dầu khí ở Azecbaizan 
lại đã nghiên cứu và ứng dụng công nghệ nano vào 
thực tiễn sản xuất. 
Việc nghiên cứu công nghệ nano trong ngành khai 
thác dầu khí ở Azerbaijan bắt đầu vào năm 80 của thế 
kỷ trước. Dưới sự hướng dẫn của nhà khoa học nổi 
tiếng thế giới – Viện Azad Mirzadzhanzade, đã 
nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc ứng 
dụng công nghệ nano cho ngành khai thác dầu khí. 
Sử dụng công nghệ nano trong công nghiệp dầu khí 
đã gia tăng sản lượng lên 1,3 – 1,5 lần, trường hợp cá 
biệt tăng 2,0-2,5 lần; mức tiêu thụ năng lượng trong 
khai thác giảm 15 phần trăm; giảm lượng nước chứa 
trong chất lỏng khai thác đến 20 phần trăm; hiệu quả 
sử dụng – 1:25. 
Triển vọng ứng dụng công nghệ nano trong ngành 
công nghiệp dầu mỏ: 
• giảm xung động trong hệ thống vận chuyển dầu và 
trong tuyến đường ống; 
• phòng ngừa các sự cố khoan giếng; 
• chống lắng đọng parafin và muối trong giếng; 
• xử lý và tồn trữ dầu mỏ. 
Dựa trên ý tưởng của Viện sĩ Mirzadzhanzade và 
dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch công ty dầu mỏ 
Azerbaijan (GNKAR) – Rovnag Abdullayev, phó chủ 
tịch thứ nhất của GNKAR – Khoshbakht Yusifzade, 
Hiệu trưởng Đại học Baku, chuyên gia Eldar 
Shahbazov lần đầu tiên đã thực hiện chương trình 
khoa học nghiên cứu và ứng dụng công nghệ nano 
trong ngành công nghiệp dầu khí. 
Lãnh đạo GNKAR đã hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ 
cho việc lựa chọn giếng, xác định chế độ, triển khai 
công tác thực tế về ứng dụng công nghệ nano. Trên 
cơ cở luận cứ khoa học vững chắc cùng với phương 
pháp khoa học plasma đã tổng hợp các hạt nhôm kích 
thước nanomet, tạo ra một sang phẩm mới công nghệ 
nano để bơm vào giếng đang khai thác trong thời 
gian dài và làm việc với chế độ ổn định. Khi xử lý 
các hạt sét, đã quan sát có sự tách khí CO2, từ đó làm 
tăng áp suất trong môi trường và tăng độ axit, và cuối 
cùng tạo ra một hiệu ứng mới. 
Quá trình ứng dụng công nghệ trong sản xuất tiến 
hành theo hai giai đoạn: trong giai đoạn đầu tiên, 
dung dịch hạt nano được bơm vào trong khoảng 
không vành xuyến giếng; giai đoan thứ hai, dung dịch 
nano được bơm ép vào trong giếng đến tầng sản 
phẩm. 
Trong giai đoạn đầu tiên, để tác động vào khoảng 
không vành xuyến của giếng khi khai thác bằng thiết 
bị bơm cần sâu và không có áp suất dư trên miêng 
giếng, thì máy bơm tạm dừng, mở mặt bích miệng 
giếng và rót dung dịch có chứa chất nano trong 
khoảng không vành xuyến. Khi khai thác bằng các 
phương pháp khác, cũng như khi trong khoảng không 
vành xuyến giếng có áp suất, thì dung dịch được bơm 
giếng bằng máy bơm-nạp nano. 
Lượng dung dịch có chứa hạt nano rót hoặc bơm vào 
trong khoảng không vành xuyến của giếng được xác 
định trước phụ thuộc vào việc cấu trúc của giếng và 
các tính chất lý-hóa của vỉa. Khi dung dịch nano đạt 
đến mức độ có thể tách vỡ các bọt khí lớn thành 
những hát rất bé được gọi là “hiệu ứng 
Mirzadjanzade”, dầu sẽ bị ép trong môi trường giếng, 
dính vào thành ống, tạo ra một lớp trươt, gị là ”gối 
trượt”. Do đó, hệ số đầy của máy bơm tăng lên, sức 
kháng thủy lực giảm mạnh, và nhờ đó lưu lượng 
giếng tăng lên 1,5-2,0 lần. 
Trong giai đoạn thứ hai, bơm dung dịch nano vào 
trong giếng bơm ép, và bơm ép dung dịch nano bơm 
vào vỉa. Viện Mirzadzhanzade cùng các cộng sự đã 
phát triển cơ sở khoa học của cơ chế hình thành sự 
tương tác dung dịch nano. 
Ưu điểm của phương pháp là khi bơm dung dịch 
nano vào vỉa sẽ xảy ra quá trình phá nhũ, dầu được 
tách ra khỏi nước và tạo điều kiện thuận lợi để nâng 
sản phẩm từ giếng có chứa các vỉa sản phầm. 
Dung dịch nano khi tác động lên vỉa, cải thiện tính 
thấm của các loại đá trong vỉa, gồm cả vùng cân đáy 
giếng và đặc biệt tăng hệ số thu hồi dầu. Hiệu quả 
của bơm dung dich nano vào vỉa cao hơn nhiều so 
với bơm vào khoảng không vành xuyên của giếng. 
Tại cả hai giai đoạn của việc ứng dụng công nghệ 
nano theo các giếng được chọn đã được xác định bởi 
mức độ ngập nước, tính chất lý-hóa của sản phẩm 
giếng và độ nhớt của nó phụ thuộc vào nhiệt độ. 
Trong thời gian 3 tháng tại giếng khai thác gazlift đã 
được kiểm tra độ tin cậy của phương pháp và thời 
gian tác động của công nghệ nano với dung dịch 
nano. Trong quá trình thử nghiệm, cho thấy trong giai 
đoạn bơm dung dịch nano vào giếng thấy lưu lượng 
giếng gia tăng, còn khi không bơm – lượng dầu giảm. 
Nếu như lưu lượng của các giếng thử nghiệm trước 
khi bơm dung dịch nano đã thu được 8 tấn/ngày, sau 
khi bơm lưu lượng tăng thêm 2 tấn/ngày. 
Vì vậy, nhờ áp dụng công nghệ nano cho nên trong 
vòng 15 ngày thử nghiệm bơm dung dịch nano đã thu 
thêm được khoảng 30 tấn dầu. 
Song song với những thử nghiệm trên giếng khai thác 
bằng gazlift N
o
 1947, 1953 và 1960 đã tiến hành thử 
nghiệm công nghiệp bơm dung dịch nano. 
Trước khi thử nghiệm trên các giếng được chọn, đã 
tiến hành đo, khảo sát và nghiên cứu để xác định mức 
khai thác dầu mỏ, tổng sản lượng của giếng, hàm 
lượng nước trong sản phẩm, hàm lượng nước trong 
nhũ tương dầu-nước. 
Mức khai thác dầu tại giếng N
o
 1947 trước khi thử 
nghiệm là 1,2 tấn. Công tác thử nghiệm kéo dài trong 
40 ngày và kết quả lưu lượng khai thác tăng rất lớn 
đến 2-3 lần. Ngoài ra. hàm lượng nước trong nhũ 
tương dầu-nước giảm 70 – 55 phần trăm. 
Mức khai thác tại giếng N
o 
1953 trước khi thử 
nghiếm là 3 tấn. Tiến hành thử nghiệm trong của 10 
ngày, lượng khai thác đã gia tăng lớn, đến 1,7-2,0 
lần. Ngoài ra, hàm lượng nước trong nhũ tương dầu-
nước từ 75-77 xuống 47-50 phần trăm. 
Lượng khai thác dầu tại giếng N
o
 1960 trước khi thử 
nghiệm là 2,6 tấn, sau 17 ngày thử nghiệm sản lượng 
khai thác được tăng rất lớn, 1,4 lần. 
Như vậy, tại các giếng N
o
 1947, 1953 và 1960 nhờ 
ứng dụng công nghệ nano cho giai đoạn thử nghiệm 
đã tăng thêm được khoảng 120 tấn dầu bổ sung. 
Tóm lại, theo các số liệu khảo sát tiến hành lần đầu 
tiên trên thế giới, các nghiên cứu lý thuyết và thực 
nghiệm đã xác nhận hiệu quả của việc sử dụng các 
công nghệ nano trong ngành công nghiệp dầu của 
Azerbaijan. 
Lần đầu tiên nghiên cứu công nghệ mới trên cơ sở hạt 
nano nhôm. Đã có những kết quả khả quan về 
phương pháp nâng cao hệ số thu hồi dầu nhờ hệ 
nano-nano và phương pháp tăng cường thu bởi hồi 
dầu. 
Với việc áp dụng công nghệ nano trong vòng 3 tháng 
ngoài sản xuất hơn 130 tấn dầu. 
Nhờ áp dụng công nghệ nano, trong 2006-2008 thu 
thêm được hơn 1000 tấn dầu bổ sung, chi phí thực 
hiện các công nghệ được hoàn vốn khoảng 25 lần. 
Với 60 phần trăm các giếng hiện SOCAR quản lý là 
loại lưu lượng nhỏ và ngập nước mạnh, đang khai 
thác trong giai đoạn cuối, sự cần thiết áp dụng công 
nghệ nano hiện nay và tương lai là rất lớn. 
Trương Quang – (Theo Rovnag Abdullaev và nnk- 
Minenergy.ru) 
Nguồn Viện Công nghệ khoan