Thành phần của HST Đô Thị
HST ĐT bao gồm những thành phần sau:
- Thành phần hữu sinh: con người và các loại sinh vật trong môi trường đô thị.
- Thành phần vô sinh: Môi trường đô thị, đất, nước, không khí, các yếu tố
khác.
- Thành phần công nghệ: Các nhà máy, cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh
viện, rạp hát,…
Trong đó thành phần công nghệ quyết định và chi phối dòng năng lượng đi
qua hệ sinh thái.
So với hệ sinh thái tự nhiên, HST ĐT có sự khác biệt rất nhiều. Vật cung cấp
không được sản xuất tại chỗ mà phải vận chuyển từ nơi khác tới. Đó là lương thực,
thực phẩm, rau quả… cung cấp cho đô thị. Vật tiêu thụ chủ yếu và quan trọng nhất là
người dân đô thị. Tại đây, thực vật (TV), động vật (ĐV) hoang dại không đóng vai trò
to lớn trong vật sản xuất và tiêu thụ.
Hoạt động của HST ĐT do con người điều khiển. Con người phải đảm bảo
vòng tuânà hoàn vật chất và dòng năng lượng của HST.
Môi trường đô thị là một thành phần của môi trường vùng xung quanh, nó là
kết quả của hoạt động vật chất của con người trong quá trình tác động tới thiên nhiên.
Môi trường đô thị luôn vận động và phát triển theo quy luật động học phức tạp, và
tuân theo các quy luật của tự nhiên cũng như quy luật nhân tạo do con người tạo ra.
Môi trường đô thị bao gồm các thành phần tự nhiên (đất, nước, không khí), và
thành phần nhân tạo do con người tạo ra, các thành phần này tác động mạnh mẽ với
nhau và hình thành nên các trạng thái mới. Thành phần của một HST ĐT được trình
bày như hình 1 sau:
Hình 1. Các thành phần của hệ sinh thái đô thị
Vô sinh Hữu sinh Công nghệ
Đất
Nước
không
khí
Vi
sinh
vật
Động
thực vật
Nhà
máy
Trường
học
Bệnh
viện
Người
• Vùng đô thị (vùng trung tâm): Có mật độ tập trung dân cư lớn, làm biến
đổi môi trường sống, có quan hệ trực tiếp với HST chuyển tiếp. Dân cư tập
trung đông, dẫn đến hang loạt những thay đổi lớn về môi trường sống làm
cho môi trường sống trở nên qúa tải. Các khu vực ao, hồ được chuyển
thành đất xây dựng làm cho HST tự nhiên bị phá vỡ và xâm phạm.
• Vùng ngoại thành (ven đô): Là vùng đệm tạo nên HST chuyển tiếp từ HST
tự nhiên sang HST nhân tạo.
- Chức năng của vùng đệm (ven đô):
+ Chuẩn bị cho dòng năng lượng đi vào HST (nguồn nguyên vật liệu) lương thực,
thực phẩm ổn định.
+ Khắc phục năng lượng thừa, dư (nguồn năng lượng bị nhiễm bẩn).
+ Chuẩn bị cho sự phát triển đô thị bằng cách tạo cơ sở.
Cấu trúc và quy mô của HST ĐT được trình bày như sau:
Hình 2. Cấu trúc và quy mô của một hệ sinh thái đô thị
Những thay đổi về quy mô và cấu trúc không gian của vùng ngoại thành thể
hiện ở việc xác lập, củng cố và mở rộng các mối liên hệ không gian nội thành và
ngoại thành và như vậy quy mô hoặc mức độ liên kết của nội ngoại thành phụ
thuộc trước hết vào số lượng, cường độ và khoảng cách của các mối quan hệ nội -
ngoại đô hay nói cách khác phụ thuộc vào quy mô, chức năng, cơ cấu và cấp trung
tâm của đô thị vùng ngoại thành kết hợp bản sắc của HST tự nhiên với HST nhân
tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh. Mối quan hệ giữa môi trường đô thị và
vùng ven đô được thể hiện ở hình3:
Môi trường đô thị Môi trường ven đô
TPVS TPHS TPCN TPVS TPHS TPCN
• Ghi chú:
- TPVS: thành phần vô sinh
- TPHS: thành phần hữu sinh
- TPCN: thành phần công nghiệp
Hình3: Mối quan hệ giữa môi trường đô thị và vùng ven đô
Đặc điểm của HST Đô thị
Trong HST đô thị, môi trường rất quan trong vì cuộc sống của chúng ta phụ
thuộc vào môi trường. Môi trường đáp ứng những nhu cầu cơ bản của chúng ta
như không khí, nước, thức ăn. Môi trường cung cấp cho chúng ta không gian để
xây dựng nhà ở. Nó cũng cung cấp cho chúng ta vật liệu xây dựng như: đá, san hô,
gỗ, cát, đất sét, nước,… Cỏ, cói giấy và lá cây cọ được dung để lợp nhà.
Cây cối và bờ giậu thường cản gió, ánh nắng Mặt trời và bụi. Ngoài ra rất
nhiều đồ dung cho gia đình chúng ta có thể được làm từ nguyên liệu tự nhiên trong
môi trường như: bát, tách uống nước, rổ rá và các loại nguyên liệu đóng gói khác
được làm từ hoa quả, đá, lá cây và cỏ. Các đồ dung trong nhà của chúng ta hầu hết
được làm từ gỗ.
Cây cối và cảnh quan thiên nhiên cũng thường đóng vai trò quan trọng về khía
cạnh văn hoá mà đã được nói đến rất nhiều trong truyền thuyết và những biểu
tượng. Ví dụ như: ở nhiều nước trên thế giới, núi thường được coi là ngôi nhà
chíng thức của các vị thần, người sang tạo ra mọi vật. Cảnh quan thiên nhiên và
những bong cây râm mát là nơi cho mọi người gặp nhau và cũng thường được
dung làm nơi mở rộng diện tích nhà. Qua những sự khác nhau của thảm thực vật,
Sinh hoạt của con người
Các nhà máy
Trật tự và giao thông
Quản lý
Chuyển tiếp đệm
Phục vụ
Du lịch - giải trí
màu sắc của đất và địa hình, mà cư dân hoặc du khách có thể biết cần phải đi đến
đâu, tìm nước ở đâu, hoặc xây nhà ở đâu và trồng cây ở đâu.
- Các nhân tố vô sinh trong môi trường (MT) của HST Đt sai khác rất nhiều so
với các HST lân cận: bụi trong không khí thường lớn gấp 10-25 lần, bức xạ
kém hơn 10-20%, mây phủ nhiều hơn 5-10%, nhiệt độ cao hơn 1-2 độ, độ
ẩm không khí thấp hơn 3-10%, gió kém hơn 20-30% và hàm lượng các khí
CO, CO2, SO2, NOx trong không khí đều cao hơn.
- Ở các vực nước tầng mặt như sông hồ thuộc HST ĐT đều bị ô nhiễm ít nhiều.
Nguyên nhân đưa đến sự khác nhau giữa HST Đt và các vùng lân cận là do hoạt
động của đô thị: các hoạt động hang ngày của người dân, các hoạt động giao
thông, sản xuất công nghiệp.
- Tất cả các nhưu cầu tiêu thụ về cật chất, về năng lượng của đô thị đều tăng lên
rất nhanh, thường là theo hàm số mũ và tất cả các loại sản phẩm thải ra như
nước thải, chất thải rắn,… đều cũng tăng lên tương ứng.
- Dân số đô thị (vật tiêu thụ chính của HST ĐT) tăng lên rất nhanh, không chỉ
do gia tăng tại chỗ, mà còn do sự di dân từ các vùng nông thôn chuyển đến.
Do vậy mà hạ tầng cơ sở của đô thị xuống cấp rất nhanh: thiếu nhà ở gay
gắt, thiếu điều kiện vệ sinh và cấp nước, tắc nghẽn giao thông, thiếu nơi đổ
rác thải, sinh ra ô nhiễm không khí, nước, đất, bụi và tiếng ồn, giảm đi các
khu vực thoáng đãng, ao hồ, diện tích cây xanh và nơi giải trí.
Tập quán sinh hoạt, cường độ hoạt động, nghề nghiệp…của người dân đô thị
đều mang sắc thái riêng, khác với người dân ở vùng nông thôn.
Các đặc điểm cơ bản của HST ĐT bao gồm:
a) Đây là một HST hở luôn có sự thay đổi theo thời gian, không gian về
chất lượng lẫn số lượng.
b) HST ĐT mang tính động do sự phát triển xã hội. Sự phát triển này có thể
ổn định hoặc không ổn định tuỳ thuộc vào mối quan hệ của các thành
phần trong HST.
c) Về cấu trúc: HST ĐT nói chung là ổn định và đồng nhất. Có vùng trung
tâm, ven nội và vùng ngoại. Sự thay đổi về cơ cấu của các vùng này
mang dấu ấn thời gian và phản ánh sự phát triển nền kinh tế xã hội qua
từng thời kỳ.
d) Bậc dinh dưỡng cuối cùng của HST ĐT là con người. Con người là thành
phần ưu thế trong HST ĐT. Con người cũng là thành phần tạo nên năng
lượng thứ cấp cuối cùng. Trong HST ĐT, ngoài các tác động của các yếu
tố tự nhiên, con người còn chịu tác động của các yếu tố xã hội. Các yếu
tố xã hội tác động lên con người rất mạnh, hơn các thành phần sinh vật
khác của hệ. Thành phần công nghệ là thành phần tái tạo lại nguồn năng
lượng cho HST. Nhờ có sự tái tạo này mà thành phần bậc dinh dưỡng
cuối cùng là con người mới được ổn định.
e) Yếu tố giới hạn trong HST ĐT là tổ hợp tất cả các yếu tố.