MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã là một thành viên chính thức của
tổ chức thương mại wto. Nên cần tạo ra một sản lượng nuôi trồng thuỷ sản
để không chỉ cung cấp cho trong nước mà còn để xuất khẩu cho nước ngoài.
Mặt khác thì không phải chỉ cần quan tâm đến sản lượng mà còn phải đảm
bảo chất lượng. Vì vậy cần quan tâm nhiều đến ngành nuôi trồng thuỷ sản vì
đó là thế mạnh của nước ta.
Những năm trước đây thì ngành thuỷ sản chủ yếu là khai thác từ tự
nhiên, chưa được kiểm soát khi đánh bắt. Nhưng vào những năm gần đây thì
ngành thuỷ sản không chỉ khai thác từ tự nhiên mà đã đưa vào nuôi trồng.
Như tôm, các loài cá có giá trị kinh tế cao. Nhưng để nuôi các loài cá cần có
chi phí cao và nguồn giống vẫn chưa được tạo ra một cách chủ động. Đặc
biệt là các loại cá khó cho sinh sản trong điều kiện nhân tạo.
Ở nước ta, cũng có một số vùng đã sản xuất giống cá nhưng chỉ với
mức độ nhỏ lẻ. Nó chỉ cung cấp một phần nhỏ và chất lượng chưa cao. Và
chủ yếu là các trại nuôi trồng lớn mới tạo ra nguồn giống và chỉ tự cung tự
cấp. Nguồn giống cung cấp vẫn còn hạn chế và không phải lúc nào cũng
cung cấp đúng mùa vụ nuôi thương phẩm.
Để phát triển ngành thuỷ sản thì ta phải quan tâm đến việc nuôi trồng
thuỷ sản . Vì việc khai thác nguồn lợi từ tự nhiên không phải là vô tận.
Và quá trình sản xuất giống là một quá trình tạo nền tảng cho việc nuôi
trồng thuỷ sản. Và đây là quá trình cần nguồn vốn thấp, thu hồi vốn nhanh
và dễ thực hiện.
Vì vậy là một sinh viên ngành nuôi trồng thuỷ sản chúng ta cần nghiên
cứu đề tài “Các giải pháp kỹ thuật góp phần cho cá đẻ sớm” để cung cấp cơ
1
sở khoa học và thực tiễn cho ngành nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam. Chúng
ta cần biết về các đặc điểm sinh sản để tạo ra một đàn giống tốt cung cấp cho
ngành nuôi trồng thuỷ sản.
2. Lý do chọn đề tài.
Đây là một đề tài hay và nó phù hợp với ngành nuôi trồng thuỷ sản của
tôi. Việc nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật giúp cá đẻ sớm là cần thiết. Vì
hiện nay, việc sản xuất giống cá sạch bệnh, sức khoẻ tốt và số lượng lớn
cung cấp đúng thời vụ là yêu cầu đặt ra khi nuôi thương phẩm cá.
3. Mục đích nhiên cứu đề tài.
Việc sản xuất giống cá là yêu cầu cần thiết giúp ngành nuôi trồng thuỷ
sản phát triển. Khi nghiên cứu các đặc điểm sinh sản của cá sẽ mang hiểu
biết hơn về quá trình sản xuất giống cá. Giúp tạo được nguồn giống tốt và
đúng thời vụ nuôi.
Qua việc nghiên cứu đề tài này giúp bản thân hiểu biết hơn về một số
nội dung kiến thức đã học trong giáo trình bộ môn “Kỹ thuật sản xuất cá
giống”. Ngoài ra còn giúp tổng hợp kiến thức, phân tích tài liệu để tập viết
báo cáo làm luận văn sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu các loài cá được nuôi trồng ở Việt Nam. Đang áp dụng các
kỹ thuật để tạo cá giống cung cấp sản xuất thương phẩm.
5. Ý nghĩa khoa học đề tài.
Khi nghiên cứu đề tài ta biết rõ hơn về sự thành thục của cá. Các yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình thành thục của cá. Từ đó để điều tiết môi trường
giúp cá có thể thành thục và tạo ra đàn giống tốt.
2
Tạo tư liệu cho môn kỹ thuật sản xuất cá giống. Từ đó giúp chúng ta
hiểu biết thêm về các kỹ thuật cho cá đẻ, ương nuôi giống.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học.
1.1.1. Quá trình thành thục của cá
a. Các giai đoạn phát triển của noãn bào.
Theo O.Xakun và A. Buskaia, năm 1973 chia quá trình phát triển tế bào
trứng làm 4 thời kỳ:
* Thời kỳ tổng hợp nhân:
Là thời kỳ đầu của sự phát triển noãn bào, tế bào sinh dục ở thời kỳ này
gồm những noãn nguyên bào, là những tế bào trứng khởi đầu của tất cả các
tế bào trứng được sinh sản bởi cá cái (đối với cá đơn tính). Noãn nguyên bào
sinh sản bằng cách phân chia khồn giảm nhiễm, tạo nên số lượng tế bào sinh
dục dự trữ bổ sung tế bào sinh dục sau khi sinh sản.
Trong quá trình tổng hợp nhân, noãn nguyên bào trải qua một loạt biến
đổi đặc trưng và bắt đầu tăng lên về kích thước biến thành tế bào trứng.
Dưới kính hiển vi những tế bào này có nguyên sinh chất không rõ ràng, chỉ
là những hạt nhỏ. Đặc biệt nhân quan sát rất rõ, chiếm hầu hết thể tích của tế
bào. Có thể quan sát thấy nhiễm sắc thể đang ở thời kỳ phân chia, màng của
tế bào không rõ ràng.
* Thời kỳ sinh trưởng sinh chất:
Ở thời kỳ này, tế bào trứng có kích thước tăng lên, chủ yếu là do sự tăng
của nguyên sinh chất. Tế bào ở đầu thời kỳ này có dạng đa giác, nhân tròn
nằm lệch về một phía do nguyên sinh chất sinh trưởng không đều. Cuối thời
ký sinh trưởng chất, tế bào có dạng tròn hơn, màng nhân rõ ràng, hạch noãn
hoàng xuất hiện ở gần màng tế bào. Nhiễm sắc thể dạng mạng lưới nằm lệch
về 1 phía của nhân.
4
* Thời kỳ dinh dưỡng:
Tế bào tăng lên về thể tích của nguyên sinh chất, đặc biệt có nhiều biến
đổi quan khối liên quan đến việc tích luỹ chất dinh dưỡng, chuẫn bị cho quá
trình đẻ trứng và phát triển phôi sau này. Tế bào trứng thời kỳ sinh trưởng
dinh dưỡng đặc trưng của sự xuất hiện của không bào, hạt noãn hoàng. Kết
thúc thời kỳ này các hạt noãn hoàng tích luỹ đầy đủ. Thời kỳ sinh trưởng
dinh dưỡng được chia ra các pha:
- Pha không bào hoá: xuất hiện ngay thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng,
các không bào nhỏ đầu tiên xuất hiện, ở vùng tế bào chất gần màng tế bào.
Những không bào này lớn lên có dạng hình tròn. Sau khi xuất hiện các
không bào ở vùng tế bào chất gần màng tế bào, trong vùng tế bào chất gần
nhân xuất hiện những không bào có kích thước lớn hơn các không bao ở
trên. Các không bào này xuất hiện theo hướng ly tâm, lúc đầu 1 hàng sau đó
nhiều hàng. Cuối pha này xuất hiện các hạt noãn hoàng ở vùng tế bào chất
gần màng tế bào.
- Pha tích luỹ noãn hoàng: Sự tích luỹ noãn hoàng xảy ra khi các giọt
không bào phát triển mạnh. Noãn hoàng lúc đầu xuất hiện một ít vùng tế bào
chất gần màng tế bào. Hạt noãn hoàng phát triển theo hướng hướng tâm,
chèn ép các không bào nói trên. Cuối pha này trong tế bào chất chủ yếu các
hạt noãn hoàng, có kích thước khác nhau, nang trứng được hình thành xung
quanh mối noãn bào. Cuối thời kỳ tích luỹ chất dinh dưỡng, tế bào trứng
bước vào thời kỳ chín.
* Thời kỳ chín:
Kích thước tế bào trứng tăng lên tối đa, đạt kích thước lớn nhất, trong tế
bào trứng các hạt noãn hoàng dính lại thành hạt lớn hơn. Không bao chỉ là
một màng nhỏ sát tế bào. Sau đó nhân chuyển về màng tế bào cực động vật,
màng nhân dần dần hoà tan làm nhân có hình dạng không ổn định. Trứng
5
chín là trứng có màng nhân tiêu biến. Rụng trứng là sự tách vở của nang
trứng cho trứng bị đẩy ra ngoài vào xoang buồng trứng hoặc xoang thân.
Lúc đó cá bố mẹ có hiện tượng động hớn cao, quấn nhau vật đẻ. Trong thời
kỳ này nếu không thụ tinh thì trứng sẽ chín quá mất khẳ năng thụ tinh.
Các giai đoạn phát dục của buồng trứng.
Dựa vào sự phân chia tuyến sinh dục theo thang 6 bậc của (Kixelevits,
1925), Sakun và Butskaia (1968) chia làm 6 giai đoạn:
* Giai đoạn 1:
xuất hiện ở những cá thể chưa thành thục, đây là lần đầu tiên tuyến
sinh dục phát triển, buồng trứng dạng sợi màu trắng, nằm sát hông gần
bóng hơi, không thể phân biệt được đực cái. Trên lát cắt tiêu bản, trứng
rất lộn xộn không theo nguyên tắc nào. Hạch tế bào chiếm 1 phần rất lớn,
mô liên kết và mạch máu không phát triển. Tế bào đặc trưng ở giai đoạn
này là những noãn nguyên bào đang lớn lên.
*Giai đoạn 2:
Với cá đẻ trứng một lần trở lên, noãn sào dẹp và bằng, các mạch máu
phân bố rất rõ có màu hồng hoặc màu xám. Với cá thành thục lần đầu tin, cơ
và mô liên kết không phát triển thấy mạch máu ở phần đầu buồng trứng.
Mắt thường không phân biệt được đực cái. Hệ số thành thục từ1-2%, sự hiện
diện những noãn nguyên bào đạt kích thước tới hạn được gọi là kết thúc sự
lớn lên về nguyên sinh chất hoặc kết thúc sự sinh trưởng lần thứ nhất, là đặc
trưng cho tế bào của noãn sào ở giai đoạn này. Đối với cá đã tham gia đẻ
trứng, đặc biệt trong buồng trứng có trứng ở giai đoạn III và IV.
* Giai đoạn 3:
Buồng trứng dày lên, màu trắng hoặc màu xanh tối, tế bào trứng có thể
nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng không thể tách từng trứng biệt. ở cá mè
6
trắng đường kính trứng đạt tới 200 - 500
µ
, mạch máu phát triển và sắp xếp
theo màng ngăn, tế bào trứng năm hai bên tấm sinh trưởng và bắt đầu tích
luỹ noãn hoàng, buồng trứng có thể tồn tại ở giai đoạn này 1-2 tháng tuỳ
điều kiện nhiệt độ, mè tắng, mè hoa, trắm có hệ số thành thục 3-6%.
* Giai đoạn 4:
Mô liên kết và mạch máu phát triển, buồng trứng chiếm 2/3 xoang cơ
thể, hệ số thành thục 15 - 22%. Buồng trứng có màu vàng nhạt hay trắng tối,
màng buồng trứng có tính đàn hồi, trong buồng trứng chứa đầy trứng, rất dễ
tách rời từng trứng. Cá chép, cá diếc có thể nặn trứng ra ngoài được, đường
kính trứng từ 200 - 1500
µ
tuỳ từng loại cá.
Giai đoạn này tuỳ theo cá đẻ 1 lần hay nhiều lần trong năm mà có điểm
khác nhau.
Cá đẻ một lần trong năm, trên cơ bản những trứng thành thục đã tích
luỹ đầy đủ noãn hoàng và có cùng một hình dạng.
Cá đẻ nhiều lần trong năm, ngoài những trứng chứa đầy đủ noãn hoàng
còn có những trứng chưa chứa đầy đủ noãn hoàng và ở giai đoạn III hoặc
quá độ từ giai đoạn II sang giai đoạn IV.
Căn cứ vào mức tích luỹ noãn hoàng nhiều hay ít mà người ta phân chia
làm các giai đoạn phụ sau: giai đoạn IVa, giai đoạn IVb, giai đoạn Ivc.
Trong sinh sản nhân tạo buồng trứng phát triển đến giai đoạn IVb và IVc
mới cho cá đẻ được. Còn giai đoạn IVa không thể kích thích đẻ trứng.
* Giai đoạn 5:
Trứng đã rụng trong buồng trứng, mạch máu xung huyết căng phồng,
buồng trứng rất mềm, vút nhẹ bụng trứng cá chảy ra thành dòng. Cá đẻ 1 lần
trong năm ngoài trứng đã rụng trong buồng trứng còn có những tế bào
trứng ở thời kỳ sinh trưởng nhỏ và sinh trưởng lớn. Tất cả các tế bào này
không phát triển thành thục trong năm mà phát triển để đẻ vào năm sau.
7
Cá đẻ nhiều lần trong năm, sau khi cá đẻ còn tế bào trứng ở thời kỳ sinh
trưởng lớn, các tế bào này tiếp tục phát triển để đẻ lần sau.
* Giai đoạn 6:
Ở giai đoạn VI buồng trứng có hai loại:
Buồng trứng cá đẻ một lần trong năm, sau khi cá đẻ buồng trứng lại
teo lại, màng buồng trứng dày lên do mạch máu xung huyết có màu đỏ tím,
trong buồng trứng có sót lại tế bào trứng ở giai đoạn V và bị hấp thụ nhanh
chóng. Trong lát cắt tiêu bản, buồng trứng có nhiều màng Follicul rỗng và
có nhiều thể vàng. Thời gian thoái hoà hoàn toàn phụ thuộc nhiệt độ, kéo
dài từ 1-1,5 tháng, sau đó trở lại giai đoạn II.
Cá đẻ nhiều lần trong năm, có nhiều trứng ở giai đoạn III lên giai đoạn
IV. Thời gian thoái hoá ngắn dài phụ thuộc số lần đẻ trong năm, sau khi
thoái hoá buồng trứng lại trở về giai đoạn III.
b. Các thời kỳ phát triển của tế bào sinh dục đực
Tinh trùng (tế bào sinh dục đực) phát triển qua 4 thời kỳ:
* Thời kỳ sinh sản:
Trong tinh sào tế bào bắt đầu phân chia để sau này thành tinh trùng gọi
là tinh bào nguyên thuỷ. Tế bào này tương đối to, hình tròn chất nhiễm sắc
trong nhân rõ và có hạch nhân. Tế bào này nằm sát tầng màng trong của ống
sinh tinh. Tinh nguyên bào phân chia giảm nhiễm nhiều lần để hình thành
tinh nguyên bào, đường kính tinh nguyên bào 9-10
µ
m. Đây là giai đoạn tế
bào sinh dục có đường kính lớn nhất, kết thúc giai đoạn sinh sản tạo tinh bào
cấp 1.
*Thời kỳ sinh trưởng:
Tinh bào cấp 1 không phân chia mà bắt đầu thời kỳ sinh trưởng, thể tích
tinh bào tăng, và số lượng bào tương cũng tăng lêm rõ rệt.
8
* Thời kỳ thành thục:
Tinh bào I bước vào quá trình phân chia thành thục, bằng 2 lần phân
chia liên tiếp. Lần phân chia thứ nhất theo hình thức giảm phân, kết quả tạo
ra tinh bào II có bộ nhiễm sắc thể đơn bội. Tinh bào II bước vào phân chia
thứ 2 theo hình thức nguyên nhiễm kết quả tạo ra 4 tiền tinh trùng có bộ
nhiễm đơn bội (n).
* Thời kỳ tạo hình:
Tinh trùng biến đổi qua quá trình phức tạp để thành tinh trùng.
Cấu tạo tinh sào và sự phân chia thời kỳ thành thục của tinh sào
Cấu tạo tinh sào:
Tinh sào của cá đực có
một đôi, nằm sát xương sống
sau bóng hơi, tinh sào thành
thục màu trắng sữa, chia
thành nhiều thuỳ không rõ rệt,
có dạng dẹt dài, lúc phát triển
mạnh căng tựa như túi mỏng,
có chứa nước đặc màu trắng. Buồng sẹ chia làm 2 phần, phần trên phình to
gọi là dịch hoàng, phần dưới bóp nhỏ và ngắn gọi là tinh quản. Phần cuối 2
ống phải trái đổ chung vào nhau thông ra ngoài làm nhiệm vụ dẫn tinh.
Mạch máu trên buồng sẹ cũng phân nhánh, nhưng không phân nhánh nhiều
như buồng trứng. Hoạt động của buồng sẹ cũng như buồng trứng có thể sản
sinh liên tục hoặc gián đoạn tuỳ theo chu kỳ sinh sản của từng loài.
Các giai đoạn phát triển của tinh sào:
* Giai đoạn I:
9
Tinh sào chưa phát triển còn ở dạng sợi nhỏ nằm sát vách lưng, mắt
thường không phân biệt được cá thể đực cá thể cái. Quan sát lát cắt trên kính
thấy tinh nguyên bào nhuộm màu ưa kiềm, đường kính tế bào khoảng 16
µ
,
đường kính nhân 9
µ
.
* Giai đoạn II:
Tinh sào dài nhỏ, bề ngang 2-4mm màu trắng hoặc trắng đục hoặc trong
suốt, mạch máu không rõ ràng. Số lượng tinh nguyên bào tăng lên nhiều,
xếp từng chùm hình thành ống tinh nhỏ, đặc giữa, các ống được ngăn cách
bởi mô liên kết.
* Giai đoạn III:
Tinh sào dạng hình que, tròn màu hồng hoặc trắng hoặc vàng nhạt. Nặn
cắt không thấy tinh trùng chảy ra. Quan sát lát cắt thấy ống tinh nhỏ hình
thành xoang rỗng. Tinh sơ cấp chín muồi, bằng nhau chứa trong tinh bào.
* Giai đoạn IV:
Nhìn ngoài tinh sào to màu trắng sữa, bề mặt có nhiều mạch máu phân
bố đầu giai đoạn IV, nặn không thấy tinh dịch chảy ra. Quan sát lát cắt có
tinh nguyên bào sơ cấp, tế bào thứ cấp và tinh trùng.
* Giai đoạn V:
Giai đoạn chín muồi của tinh trùng, tinh nang phát triển sớm màu trắng
sữa hoặc hơi vàng nhạt, mạch máu phát triển rõ ràng, nặn nhẹ tinh dịch chảy
ra từng giọt. Quan sát lát cắt trong túi tinh, nhỏ, có nhiều tinh trùng, đoạn
giữa của tinh sào trong các buồng chứa lượng tinh trùng tương đối nhiều,
giai đoạn này là giai đoạn phóng tinh.
* Giai đoạn VI:
Sau khi tham gia sinh sản, tinh nang teo đi thành giải nhỏ. Tinh nang
màu trắng, hồng nhạt. Trong lát cắt lồi lõm không bằng nhau trong bầu chứa
10
và tinh nang sót lại một ít tinh trùng nhanh chóng phân giả. Sau giai đoạn VI
tinh sào trở về giai đoạn III.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thành thục của cá.
a. Nhiệt độ
Cá là động vật biến nhiệt, nhiệt độ cơ thể có thể biến đổi theo nhiệt
độ của môi trường. Do đó mà sự thành thục của cá có ảnh hưởng của nhiệt
độ. Ta cần quan tâm đến nhiệt độ để có thể điều chỉnh phù hợp với đối
tượng nuôi. Đặc biệt là giai đoạn nuôi vỗ cá.
- Trong quá trình trao đổi chất, sinh trưởng, sinh sản phụ thuộc vào
nhiệt độ nước. Theo Chu Lân, 1965, Ctrozanotm npgan, 1972 phạm vi thích
ứng của cá ăn thực vật là 18 - 32
o
C, nhiệt độ ưa thích là từ 22 - 28
o
C. Trong
phạm vi nhiệt độ sinh sản của các loài cá nuôi nước ngọt là từ 18 - 30
o
C,
nhưng nhiệt độ thích hợp nhất là từ 24 - 28
o
C, còn nhiệt độ ở 18 - 20
0
C và 30
- 32
o
C cá nuôi vẫn đẻ được nhưng tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở thấp, cá con dị hình
nhiều.
- Nếu trong phạm vi nhiệt độ thích ứng khi nhiệt độ tăng lên thì khả
năng phát dục và thành thục của cá cũng tăng lên và đồng thời quá trình
thoái hoá tuyến sinh dục cũng tăng lên.
Cá Chép ở miền Bắc, do nhiệt độ thấp cho đẻ vào đầu mùa xuân nhiệt
độ biến thiên 18 - 20
0
C, nhưng cá Mè, cá Trắm không thể cho đẻ được ở
nhiệt độ này vì cá chưa phát dục đồng thời phôi cá phát triển chậm, dị hình
và cá con chết nhiều khi ương. Cá Trắm cỏ, cá Trôi, cá Mè có thể tiến hành
cho đẻ vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè trong phạm vi nhiệt độ từ 20 -30
0
C,
trong phạm vi này hiệu quả cho đẻ cao hơn. Ở nhiệt độ 16
0
C phôi cá trắm
không phát triển, ở 18
0
C chỉ có 4-5% phôi cá trắm phát triển, ở 31
0
C chỉ có
22% phôi cá phát triển. Điều này chứng tỏ dù ở nhiệt độ quá thấp hay quá
cao cá có đẻ cũng không tốt.
11
Điều này chứng tỏ cá sống ở môi trường nào thì phạm vi thích ứng
với môi trường ấy tốt hơn, tuy nhiên cũng trong 1 phạm vi nhất định.
Nói chung thì yếu tố nhiệt đô là quan trọng:
- Nhiệt độ có ảnh hưởng đến khả năng thành thục và thoái hoá của
tuyến sinh dục, ảnh hưởng đến hiệu ứng kích dục tố.
- Quá trình phát triển của phôi nhanh hay chậm nó phụ thuộc vào
nhiệt độ, nhiệt độ cao thời gian phát triển ngắn.
b. Các yếu tố môi trường nước.
Chất nước có tác dụng khá rõ trong sinh sản của cá trong ao. Nó ảnh
hưởng dến hệ thần kinh của cá. Do vậy mà nó sẽ tác động đến tiết hormone
giúp cá thành thục. Vì vậy, nếu chất nước phù hợp sẽ giúp cá thành thục
nhanh. Yếu tố chất nước chính là trị số oxy hoà tan, trị số pH, độ muối và
các chất vô sinh khác hoà tan trong nước, và sự tồn tại của chất chất hữu
sinh có quan hệ đến đời sống của cá.
* Oxy hoà tan: đóng vai trò quan khối và nó ảnh hưởng đến quá trình
sinh sản. Yêu cầu hàm lượng oxy hoà tan trong môi trường nước phải đảm
bảo >3 mgO
2
/l, tốt nhất là từ 4-8mgO
2
/l. Vì giai đoạn này cá tích luỹ chất
dinh dưỡng thành sản phẩm sinh dục nên hoạt động của cơ thể cá cao. Nên
cần cung cấp oxy đầy đủ cho quá trình thành thục cá.
Không đảm bảo hàm lượng oxy hoà tan sẽ ảnh hưởng đến cá bố mẹ,
vì cá bố mẹ nếu thiếu oxy sẽ ngừng sinh sản, tỉ lệ thụ tinh không cao.
Nếu yếu tố oxy không đủ thì không phải là quá trình thành thục của cá
ảnh hưởng mà kể cả sự tồn tại của cá cũng bị đe doạ.
Mặc dù vậy thì lượng oxy hoà tan quá lớn cũng gây nên việc cá mắc
bệnh bọt khí. Vì vậy lượng oxy hoà tan cần cung cấp đủ để cá có thể thành
thục
Ví dụ: Ở Hải Dương cho cá Chép đẻ nước bị đục, hàm lượng oxy hoà
tan 1mgO
2
/l, sau 2 ngày cá không đẻ. Nhưng khi thay nước sông có hàm
lượng oxy 3-4mgO
2
/l và nước trong thì cá bố mẹ đẻ, tỉ lệ thụ tinh cao.
12
* pH: là chỉ tiêu biển hiện sự hoà tan các ion có trong nước, pH ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình đẻ trứng, pH quá cao hay quá thấp sẽ ức chế cá bố
mẹ đẻ trứng.
pH < 5 và pH > 9 cá không đẻ được hoặc hiệu quả đẻ không cao.
* Hàm lượng CO
2
hoà tan.
Hàm lượng CO
2
ảnh hưởng lớn đến cá. Nó ảnh hưởng đến hệ cân
bằng Cacbonat trong nước. Vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố pH, sinh
vật trong ao.
Cần đảm bảo đủ hàm lượng CO
2
hoà tan. Đó là yếu tố tác động gián
tiếp đến quá trình thành thục của cá.
c. Mức nước và dòng chảy.
* Mức nước ảnh hưởng đến các loài cá. Đặc biệt là các loài cá sống
trong đại dương. Các loài cá biển chỉ thành thục khi có sự thay đổi của mực
nước do tác động của thuỷ triều lên xuống.
Do đó cũng cần quan tâm đến việc điều chỉnh mực nước để giúp cá
thành thục.
* Dòng chảy cũng ảnh hưởng đến việc thành thục của cá. Đó là yếu tố
giúp cá thành thục. Đặc biệt là các loài cá di cư lên thượng nguồn để đẻ.
Việc đi ngược dòng chảy giúp cho cá thành thục trong quá trình di cư là cần
chú ý để chúng ta khi sản xuất cá giống nhân tạo đáp ứng yêu cầu này. Đây
là điều kiện cần để cá thành thục. Nếu yếu tố này không xảy ra thì cá sẽ
không thể thành thục.
Ngoài tự nhiên, cá bố mẹ di cư đi đẻ, ngược dòng từ hạ lưu lên thượng
lưu các con sông, có bãi đẻ thích hợp, có dòng chảy cá bố mẹ mới đẻ trứng,
trứng trôi nổi và phát triển thành cá con. Dòng chảy là yếu tố phân tán các
sản phẩm sinh dục trong quá trình đẻ trứng và thụ tinh.
e. Yếu tố đực - cái
Đối với từng loài thì yếu tố tự nhiên đóng vai trò quan trọng khác
nhau. Có một số loài thì yếu tố này sẽ quyết định sự thành thục của cá cái.
13
Nhưng một số loài thì tỉ lệ đực cái không ảnh hướng gì đến sự thành thục
của cá.
Một số loài cá cái chỉ có khả năng rụng trứng và đẻ trứng khi có mặt
cá đực. Trong điều kiện sinh sản nhân tạo cá đực vẫn có tác dụng thúc đẩy
cá cái đẻ trứng. Thực tế cho thấy sau khi tiêm kích dục tố 4 - 8 giờ thì cá đực
bắt đầu hoạt động và theo đuổi cá cái (biến động), sau đó cá cái mới bắt đầu
đẻ trứng. Cá đực và cá cái có thể nhận biết được nhau vì chúng đều tiết ra
dịch trong môi trường nước gọi là feramon. Khi cá đực tiết ra cá cái nhận
biết được nó sẽ kích thích tuyến yên tiết ra kích dục tố làm cho tuyến sinh
dục phát triển và đẻ trứng.
Với một số loài cá dễ đẻ thì yếu tố đực cái không ảnh hưởng lắm đến
quá trình thành thục. chúng ta còn cần phải tách đực cái riêng để dễ quản lý
hơn. Như các loài cá rô phi, cá mè…
g. Ánh sáng.
Ánh sáng tác động lên cơ quan của giác quan của cá. Theo cơ chế tác
động thì ánh sáng sẽ điều chế việc tiết hormone sinh sản của cá.
Một số loài, cường độ chiếu sáng dài thì cá sẽ thành thục nhanh hơn
(cá chình…). Nhưng hầu như các loài cá, việc tác động yếu tố ánh sáng chủ
yếu là có hiệu quả trên cá cái. Còn cá đực thì không chịu tác động này.
h. Việc thay đổi độ mặn.
Việc thay đổi độ mặn chủ yếu là tác động lên các loài cá di cư sinh
sản như cá chình, cá mú, cá chẽm…. Khi thay đổi độ mặn của môi trường
nuôi thì sẽ tạo cảm giác cho cá đã thay đổi vị trí. Khi đó sẽ kích thích quá
trình sinh sản của cá.
Ngoài các yếu tố trên còn nhiều yếu tố khác liên quan đến quá trình
sinh sản của các loài cá nuôi: ánh sáng, chất đáy, vật bám của trứng, thức
ăn…
14
Cơ quan
ngoại cảm
Thần kinh trung ương
(Hypothalamus)
Tuyến yên
(Hypophysis
)
Kích dục tố
LH
Kích dục tố
FSH
Tuyến thượng
thận
Nang trứng
Progesteron
Chất tạo
noãn hoàng
Noãn
sào
Gan
Chất tạo noãn hoàng
(Phospholipoprotein)
Steroid gây rụng
trứng(Docacortisone,
Hydrro Cortisone)
Ngoại
cảnh
Thần kinh chi tiết
(Releazing Factor)
1.1.2. Nguyên lý cơ bản quá trình sinh sản của cá trong điều kiên
tự nhiên.
Hình: Sơ đồ nguyên lí sinh sản của cá trong điều kiện tự nhiên.
Trong quá trình sống, sinh vật chịu sự chi phối rất lớn bởi ngoại cảnh.
Các biến đổi sinh lý bên trong cơ thể cá có quan hệ chặt chẽ với sự thay đổi
các yếu tố bên ngoài. Trong quá trình phát dục thành thục sinh sản, cá chịu
15
sự chi phối và tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp của các yếu tố môi trường
nước, những yếu tố này tác động lên các cơ quan cảm giác như: da, thị giác,
khứu giác, vẩy đường bên…Các cơ quan ngoại cảm này sản sinh ra các xung
động, xung động lập tức truyền về trung khu thần kinh (Hypothalamus), tại
đây sẽ xẩy ra quá trình tổng hợp và phân tích sơ bộ và đưa ra các phản ứng.
Trung khu thần kinh sẽ tác động lên hệ nội tiết sinh sản của cá, cụ thể tác
động lên tuyến yên (Hypophysis) thông qua hệ thần kinh thể dịch. Do tác
động của thuỳ thần kinh, thuỳ tuyến tiết ra các hormon FSH (Follicle
Stimulating Hormone) và LH (Luteinizing Hormone). Hormone FSH thúc
đẩy quá trình tạo noãn hoàng của tế bào trứng dẫn đến kết quả buồng trứng
đạt cuối giai đoạn IV, trứng chín và sẵn sàng rụng. Dưới tác dụng của
hormone LH, nang trứng sản xuất ra một lượng Progesteron hay một chất có
bản chất Steroid để chất này tạo ra sự rụng trứng triệt để.
Nhờ nguyên lý này chúng ta biết thêm về tác động của hệ thần kinh lên sự
thành thục của cá. Vì vậy mà ta biết được tại sao phải tạo môi trường thuận
lợi cho cá thành thục. Đây là cơ sở cho việc thực hiện sinh sản nhân tạo, khi
sử dụng các loại kích dục tố.
1.1.3. Nguyên lý cơ bản của quá trình sinh sản của cá trong điều
kiện sinh sản nhân tạo
Khi tuyến sinh dục của các loài cá nuôi đã đạt được mức độ thành thục
hoàn toàn, trứng chín thì sẽ diễn ra hai quá trình tiếp theo đó là rụng trứng và
đẻ trứng. Theo Sakem và ctv (1975).
Khi tế bào trứng đã phát dục thành thục và tách khỏi màng follicle rơi
vào xoang buồng trứng gọi là qúa trình rụng trứng. Lúc này trứng ở trạng thái
lưu động tự do. Sau khi trứng rụng, trứng từ xoang buồng trứng được đưa ra
ngoài qua lỗ sinh dục của cá cái gọi là sự đẻ trứng của cá.
16
Hình: Nguyên lí sinh sản của cá nuôi trong điều kiện sinh sản nhân tạo
Khi tuyến sinh dục của cá bố mẹ phát triển đến cuối giai đoạn IV, dù
trong điều kiện tự nhiên hay điều kiện nhân tạo, nếu bị kích thích bởi một
lượng hormone sinh dục có nồng độ nhất định và trong một khoảng thời gian
nhất định (từ 8- 20 giờ, phụ thuộc vào mức độ thành thục của tuyến sinh dục
và nhiệt độ môi trường nước), khi đó sẽ xảy ra những chuyển biến về sinh lí
trong cơ thể cá, biểu hiện tương đối rõ thông qua số lượng bạch cầu tăng lên
rất nhiều. Sự tăng lên này có thể do cơ quan tạo máu tăng cường hoạt động và
mạch máu chảy vào tuyến sinh dục cũng căng lên. Lúc này dưới tác dụng của
thần kinh thể dịch, đặc biệt là tác dụng của hormone sinh dục tế bào follicle
nhanh chóng thành thục. Tế bào lớp trong của follicle trở thành hình lập
phương, phình to và nhanh chóng tiết ra dịch thể (noãn dịch) nhiều trong
xoang buồng trứng, về sau các nang trứng thường tách ra và vỡ. Tiếp đó thể
tích buồng trứng tăng lên rõ rệt, khoảng 35% (Vương Nghĩa Cường, 1978).
17
Do tác dụng của dịch noãn sào được tiết ra, trong đó có chứa
Progesteron hoặc một số chất Steroid nên tầng keo giữa tế bào trứng và noãn
bào bị hoà tan, làm cho tế bào trứng, màng follicle và dịch noãn sào do màng
follicle tiết ra có thể tiếp xúc trực tiếp với nhau, đồng thời cũng có thể do tác
dụng áp suất thẩm thấu, tế bào trứng hấp thụ noãn dịch làm cho thể tích và
khối lượng của nó tăng lên rõ rệt. Sau khi hấp thụ noãn dịch, sinh lí của tế
bào trứng thay đổi nhanh chóng và chuyển sang thời kỳ thành thục.
Đặc điểm của trứng thành thục là noãn hoàng hợp lại, nguyên sinh chất
và nhân di chuyển về cực động vật, hạch noãn bắt đầu cực hoá và phân
chia…Lúc này tổ chức của noãn bào một mặt chịu tác dụng vật lí của việc
tăng noãn bào, mặt khác do tác dụng của hormone làm cho vùng mỏng nhất
của màng follicle bị rách và từ đó trứng thoát ra ngoài và rơi vào xoang
buồng trứng. Hoạt động sinh dục tăng lên, cơ trơn của ống dẫn trứng đột
nhiên dãn ra và cũng có thể do tác dụng co bóp làm cho trứng chứa trong
xoang noãn sào được phóng ra ngoài cơ thể.
Đối với các loài cá khi sinh sản trong tự nhiên, quá trình thành thục của
noãn bào và noãn sào có sự phối hợp đồng pha với nhau. Nhưng trong điều
kiện sinh sản nhân tạo có nhiều trường hợp có sự không đồng pha, cụ thể như
sau:
Noãn bào rơi vào xoang bao trứng, buồng trứng ở giai đoạn IV – V, một
số hoặc rất nhiều noãn bào đã ra khỏi buồng trứng nhưng phần lớn bị chết. Lỗ
sinh dục của cá bố mẹ đã bị bịt kín và cấu trúc của buồng trứng, noãn bào
phần nhiều ngừng lại ở cuối giai đoạn IV chưa thành thục và chưa ra khỏi
buồng trứng.
Noãn bào chưa ra khỏi buồng trứng, bụng cá mẹ phình to rõ rệt, đa số
noãn bào chưa ra khỏi buồng trứng nhưng hầu hết có hiện tượng trương nước
18
và đã quá độ sang giai đoạn V. Có một số noãn bào hình thành xoang bao
nhỏ, đường kính trứng lớn hơn một chút
Có một số noãn bào ở cuối buồng trứng đã rơi ra khỏi buồng trứng, các
noãn bào ở giữa và đầu buồng trứng đa số đã rời ra khỏi bao noãn nhưng
không thể thoát ra khỏi buồng trứng, nếu dùng tay vuốt hai bên bụng cá trứng
mới cá thể chảy ra ngoài nhưng với số lượng rất ít.
Tuy nhiên những hiện tượng trên cũng có thể do kỹ thuật nuôi dưỡng chưa
đúng quy trình, cá yếu không đủ sức đẻ trứng, chọn cá chưa đạt mức thành thục,
lượng kích dục tố không đủ, hoặc điều kiện sinh thái không phù hợp.
1.1.4. Các loại kích dục tố sử dụng trong sinh sản nhân tạo.
a. Não thuỳ thể
* Thu nhập, xử lý và bảo quản não thuỳ thể
Cách đây 2/3 thế kỷ các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được rằng việc dịch
chiết từ tuyến yên có thể làm cho cá sinh sản (Houssay,1930, Von therring
1937, Gerbilsky, 1938). Phươmg pháp này được gọi là phương pháp tiêm não
thuỳ thể hay hypophisation. Thuật ngữ hypophisation được phổ biến trong
sinh sản nhân tạo cả đến mức người ta dùng nó để chỉ việc tiêm chất kích
thích sinh sản dù chất kích thích sinh sản đó không phải được chiết từ tuyến
yên.
- Thu thập:
Người ta lấy não thuỳ từ những cá thuộc loài cá chép, trắm, mè, trôi…đã
thành thục còn tươi sống. ở cá đã chết sau vài giờ, hoạt tính kích dục chỉ còn
50%(Marcel, 1980) Trong trường hợp cùng thể trạng và mức độ thành thục
thì não thùy cá chép cái có hoạt tính GTHH cao gấp hai lần so với não thuỳ
cá đực cùng loài (Blanc; Abraham, 1968). Cá có hệ số thành thục càng cao,
càng gần thời điểm sinh sản thì hoạt tính kích dục của não thì càng cao, cao
hơn 1, 5 - 2 lần so với những loài có thể thành thục nhưng không thể đẻ được
19
trong ao như cá mè, cá trắm. Não thùy cá chép được gọi là loại chế phẩm
mạnh cho nhiều loài kể cả các đối tượng nghiên cứu khác họ và kể cả các loài
cá biển.
Sau khi cá đẻ một cách tự nhiên (không được tiêm bất cứ chất sinh sản
nào) hoặc đã đẻ nhờ được kích thích bằng GnRH hoặc các loại antistrogen
như clomiphen citrat, tamoxilen thì não cá hầu như không có hoạt tính kích
dục. Kích dục tố nội sinh từ tuyến yên của cơ thể chủ đã tiết ra để gây chín,
rụng trứng hoặc tiết tinh cho chính nó. Ngược lại những cá thể đã sinh sản
nhờ được kích thích bằng kích dục tố ngoại sinh hoặc bằng các loại homon
steroid thì não thuỳ vẫn còn hoạt tính kích dục.
Ngay trước khi lấy não thuỳ người ta giết cá để tránh vùng vẫy, sau đó
dùng dao để chặt xương chẩm của cá từ sau miền mắt trên đến hết xương
chẩm, lật xương chẩm lên dưới lớp óc nhầy toàn bộ não cá, dùng kẹp cặp
dây thần kinh khứu giác, lật toàn bộ não phía sau, sẽ thấy não thuỳ thể hình
tròn, nằm sau trong hốc xương bướm. Dùng đầu nhọn của que lấy não xé
rách màng bọc xung quanh, rồi dùng que lấy não ấn nhẹ vào hốc xương
bướm, não sẽ lồi ra. Não thuỳ lấy ra phải còn nguyên vẹn, nếu vỡ thì hoạt
tính của hormon sẽ giảm.
- Bảo quản não thuỳ thể:
Lấy não thuỳ thể ngâm vào accton để tẩy bớt mỡ, thể tích acction trong
lọ gấp 20 - 100 lần thể tích não thuỳ. Sau một ngày đêm ngâm não thuỳ,
người ta thay acction, có thể làm như thế vài lần cho đến khi accton không
còn biến màu nữa. Từ đó có thể bảo quản bằng cách để nguyên não trong
acction nơi mát và tránh ánh nắng. Có thể dùng cồn 96
0
thay accton.
Ở những nước tiên tiến và có điểu kiện thuận lợi não thuỳ cá được bảo
quản ở dạng bột khô hoặc huyền phù trong glycerin. Những chế phẩm kích dục
tố như thế luôn có hoạt tính đồng nhất, ổn định, dễ định liều khi sử dụng. Ở
nước ta do nhiệt độ và độ ẩm cao, các chế phẩm protêin dễ bị phân huỷ bởi vi
20
khuẩn và nấm mốc nên accton là dung dịch được bảo quản nãocá cho đến khi
dùng.
Cách sử dụng não thuỳ:
Trước khi dùng não thuỳ được lấy ra khỏi lọ, hong khô accton trong
không khí rồi được nghiền bằng cối chày sứ, thêm dung dịch nước sinh lý
hoặc nước cất để tạo thành huyền phu.Não tươi khi mổ cá lấy ngay, trước khi
tiêm cũng làm như vậy. Não ngâm trong cồn hoặc accton lấy ra phải để 3 - 4
phút sao cho khô hẳn rồi mới nghiền, khi nghiền ta thấy có vỏ bọc não thuỳ
không tan được nên gạt và tránh nếu không lúc tiêm sẽ bị tắc.
Việc định liều não thuỳ cho cá bố mẹ hoặc loài tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố như chất lượng, hoạt tính của não thuỳ, tình trạng thành thục cả bố mẹ khi
được tiêm (mức độ thành thục, hệ số thành thục) nhiệt độ nước, các điều kiện
khác của môi trường chứa cá sau khi được tiêm thuốc kích thích giống như
các yếu tố tự nhiên, như bãi đẻ tự nhiên của cá. Việc sử dụng não thuỳ để
kích thích cá sinh sản được căn cứ vào điều kiện cụ thể và kinh nghịêm của
kỹ thuật viên. Thường việc tiêm não thuỳ được tiến hành hai lần, lần thứ nhất
được gọi là tiêm sơ bộ hoặc khởi động, trong đó lượng não thuỳ bằng khoảng
0, 5 mg/kg hoặc 1/10 liều thứ 2, liều quyết định. Ở Liên Xô trước đây, nếu
dùng não thuỳ cá chép cho cá mè, cá trắm, người ta dùng liều quyết định trong
khoảng 2, 5 - 3, 9mg/kg. ở các nước khác trong trường hợp tương tự liều tiêm
có thể đến 5 - 6 mg/kg. Đối với những cá có hệ số thành thục càng lớn (càng
nhiều trứng), người ta dùng liều càng cao. Dưới đây là phương trình biểu diễn
sự phụ thuộc của liều não thuỳ cá chép vào vòng bụng của cá trắm cỏ cái. Lúc
không có thức ăn trong đường tiêu hoá để đạt kết quả sinh sản tốt:
Y = 0, 25 x 1, 75
Trong đó Y là tiểu não thuỳ (mg/kg cá cái), x là vòng bụng cá cái (cm).
Liều quyết định là liều gây chín và rụng trứng được tiêm sau liều tiêm sơ
bộ một khoảng thời gian xấp xỉ bằng thời gian hiệu ứng. Tuy nhiên, trong
21
thực tế thì kỹ thuật viên phải chọn thời gian giữa hai lần tiêm các chất kích
thích cho cá và thu trứng đã rụng vào những thời điểm thuận lợi.
Ngày nay người ta tránh dùng não thuỳ ở liều quá cao, đặc biệt là tiêm
khởi động. Ở một chừng mực nhất định, việc tăng liều lượng khi tiêm quyết
định có tác dụng rút ngắn thời gian hiệu ứng. Nhưng liều tiêm não thuỳ quá
cao đưa vào cơ thể cá một lượng lớn các hormon của tuyến yên có thể dẫn đến
sự rối loạn tình trạng sinh lý bình thường, gây chết cá mẹ và làm giảm chất
lượng của chúng.
Đối với cá đực, để kích thích sự tiết tinh và sinh sản người ta chỉ tiêm
một lần cùng lúc với việc tiêm liều quyết định cho cá cái.
Tuy nhiên sử dụng phương pháp tiêm não thuỳ để kích thích cá sinh sản
vẫn còn phổ biến trong nghề cá, từ lâu nó đã bộc lộ những điểm bất lợi. Đó là
việc phải giết những cá đã thành thục có thể làm cá bố mẹ hoặc làm giảm giá
trị thương phẩm của cá bị lấy não thuỳ, sự thiếu hụt não thuỳ đe doạ việc
hoàn thành kế hoạch trong sản xuất, sự không ổn định của hoạt tính có thể
gây những tổn thất về cá bố mẹ, kế hoạch và tiến độ sản xuất. Ngoài ra, như
trên đã nói, chế phẩm nguyên cái hoặc bột thô não thuỳ hỗn hợp nhiều loại
hormon mà việc sử dụng không thích hợp có thể gây phản ứng phụ có hại,
thậm chí gây chết cá bố mẹ được tiêm.Vì thế từ lâu người ta đã tìm kiếm
những chất có khả năng kích thích cá sinh sản có thể thay thế não thuỳ cá và
ưu việt hơn nó.
b. HCG: (Human Chorionic Gonadotropine)
HCG có tên bằng tiếng việt nhưng ít được dùng là kích tố màng đệm
hoặc kích dục tố nhau thai được Zondec và Asehheim phát hiện từ năm 1927
trong nước tiểu phụ nữ có thai. Lúc ấy các nhà nghiên cứu nội tiết vẫn cho
rằng HCG có nguồn gốc là tuyến yên chứ không phải màng đệm thai nên đã
đặt cho nó cái tên ghép là Prolan từ các từ Producto Lobi Anterioris (Eskin,
1968).
22
Có thể nói công trình đầu tiên về việc sử dụng HCG cho cá là của
Morazova, người vào năm 1936 đã gây rụng trứng thành công cho cá
Perca Phiviatilis bằng nước tiểu phụ nữ mang thai và HCG mà lúc ấy vẫn
còn mang tên Prolan. Nếu LH của động vật có vú có khả năng gây rụng
trứng ở nhiều loài cá thì HCG rất giống với LH của người.
Cũng như các kích dục tố khác HCG là một glycoprotein tan trong
nước.Vì thế việc chiết xuất HCG từ nước tiểu phụ nữ có thai hoặc từ nhau
thai (trong trường hợp nạo thai non) dựa vào nguyên lý tách protein tan trong
nước.
Chế phẩm HCG mang những tên biệt được khác nhau, như Puberogen
(Ling 1969). Antuitri S(Oliver et al, 1973), Chiriogonin (Hunggary),
Gonabion (CHDCD), Biogonnadin (Balan), Pregnyl (Halan) Choragon,
Chorioman, Predalon, Pirimogonyl (CHLBĐ). Hỗn hợp HCG và bột tuyến
yên động vật có vú mang tên Synaborin Gonagen - Fote (Ling, 1969).
HCG gây được những phản ứng oxy hoá cho các enzym chuyển hoá
protein và lipit như anhydrogenaza và esteraza của cá mè trắng tương tự như
tác dụng của não thuỳ cá chép trên loài này.
Khi nghiên cứu tác dụng gây rụng trứng cho cá mè trắng, theo Verigin
(1982) sau liều sơ bộ200 - 400 IU/kg, liều quyết định tối ưu của HCG là 2000
- 2500IU/kg. Khi thành thục tốt có thể dùng liều 1500 - 2000 IU/kg, song thời
gian hiệu ứng sẽ tăng 1- 3 giờ so với liều HCG cao cũng như liều não thuỳ
thể.
Liều chỉ dẫn trên các chế phẩm của HCG của Trung Quốc cho cácloài cá
mè là 1600 - 2000, có khi 800 -1200 IU/kg. Ở nước ta liều trung bình cho 1 kg
cá mè trắng cái là 1500 IU (Nguyễn Tường Anh, Trần Thị Như, , 1977), hoặc
1500 - 2000 IU theo quy trình kỹ thuật nuôi cá nước ngọt (Vụ khoa học kỹ thuật,
1976).
23
Có thể nói HCG là kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho
nhiều loài cá nhất.
c. Kích dục tố huyết thanh ngựa chữa (HTNC)
Do thường được dùng dưới dạng huyết thanh nên tên thông dụng của
chế phẩm này là huyết thanh ngựa chữa. HTNC được Cole và Hart tìm ra
1930. Kích dục tố HTNC do nội mạc dạ con tiết ra, đạt cực đại trong khoảng
ngày 50 - 80 của thai kỳ. Tỷ lệ FSH/LH khá cao, từ 2/1 đến 12/1. Trước đây
người ta cho rằng phân tử của nó có kích thước lớn, không qua được quản cầu
thận và chỉ tuần hoàn trong máu ngựa chữa mà không có trong nước tiểu.
Nhưng theo Frien (1971) thì phân tử lượng của kích dục tố huyết thanh ngựa
chữa là 2800, nghĩa là còn nhỏ hơn phân tử lượng của HCG và giả thuyết trên
là không có cơ sở.
HTNC được điều chế sau khi lấy máu trực tiếp từ ngựa chữa.
Nhờ tỷ lệ FSH/LH cao, huyết thanh ngựa chữa được dùng để kích thích
phát triển đồng thời nhiều nang trứng trong vật cái nuôi và sau đó là sự rụng
đồng thời nhiều trứng, cơ sở của sự đẻ róc trong mỗi lứa.
Dựa vào lượng FHS cao, nhiều nhà nghiên cứu đã dùng HTNC trên cá
như GHH yếu tố thúc đẩy sự tạo trứng. Theo hướng này, các nhà khoa học
Bunggary đã thành công khi dùng liều 700 - 1000 đviệc/kg để nâng cao sức
sinh sản cá chép trong sinh sản tự nhiên tại ao. Việc dùng HTNC để thúc đẩy
sự tạo noãn hoàng ở cá mè trắng (Nguyễn Tường Anh và Lê Thanh Lựu, 1985)
thu được kết quả không rõ ràng.
Môi trường khác của việc sử dụng HTNC là dùng phối hợp với HCG
hay TSH trên cá để nâng cao hiệu quả gây rụng trứng.Chẳng hạn có thể dùng
hỗn hợp gồm 500IU của HCG 1200 đvc HTNC/kg cá cái để kích thích cá mè
trắng đẻ, hoặc 700 đvc HTNC 1- 3 IU TSH làm liều sơ bộ/kg cá trắm cỏ.
d. Các GnRH A và các chất kháng dompamin
24
Các GnRH A chính là chất tổng hợp có thành phần các aminoaxit trên
cơ bản giống với các chuỗi pepid được thay đổi. Vì thế người ta gọi là các
chất tương tự GnRH A tư nhiên, có một số mắt xích aminoaxit trên chuỗi
pepti được thay đổi.Vì thế người ta gọi là các chất tương tự (A analog).Các
chất tổng hợp này thường chỉ có 9 axit amin. Chính nhờ sự thay thế các axit
amin tại một số vị trí mà phân tử GnRH A ít bị phân giải bởi các enzim, do
đó được tính tăng lên gấp bội, hàng chục đến hàng trăm lần các hợp chất tự
nhiên.
Hiện nay trong nghề cá người ta thường dùng 3 loại GnRH A: LH RH
A, Buserelin (Chất tương tự GnRH A của động vật có vú) và GnRH A (Chất
tương tự GnRH A cá hồi).
Đối với cá, trong ba loại sGnRH A này thì mạnh nhất là sGnRH A vì
chúng có ái lực cao nhất. Ovarim là hỗn hợp của hai hoạt chất có thành phần
là 20mg sGnRH A và 10mg domperidon trong khoảng 1 ml propylen glycol,
dành riêng để kích thích cá sinh sản (Nguyễn Tường Anh 1977). Mỗi ml
Ovaprim có thể dùng cho 1 kg cá thành thục. Trong trường hợp không có chế
phẩm chuyên dùng để kích thích cá đẻ, người ta có thể tự pha chế lấy.
Ngoài domperidon có thể dùng các chất kháng domperidon khác như
pimozid, respin, spiperon, haloperido. Có thể nói tất cả GnRH A đều có tác
dụng gây phóng kích dục tố ở cá, vì thế chúng có thể được dùng làm chất kích
thích sinh sản cho tất cả các loài. Tính đặc hiệu theo loài chỉ thể hiện ở mức độ
hoạt tính, không có loại GnRH A nào lại không có hoạt tính trên cả. Đối với việc
kích thích sinh sản cá, các GnRH A giá rẻ, hoạt tính ổn định nếu được bào chế
và bảo quản tốt, không gây phản ứng miễn dịch. Tuy nhiên có những điểm cần
lưu ý khi sử dụng GnRH A cho cá, dựa vào cơ chế tác dụng của chúng. Đó là
thời gian hiệu ứng dài hơn với trường hợp dùng kích dục tố hay các hormon
steroid. Ngoài việc dùng các GnRH A tiêm 1 lần hay 2 lần gần nhau để kích
thích rụng trứng và sinh sản ở cá, các chất này có thể cấy vào cá ở những giai
25