57
- Cách tính lương hưu như hiện nay có lợi cho những người có mức lương cao
trước khi nghỉ hưu nhưng thiệt thòi cho những người có mức lương cao trong thời gian
đầu tham gia công tác nhưng có mức lương thấp trước khi nghỉ hưu.
- Mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm xã hội có sự chênh lệch quá xa giữa các
khu vực hành chính sự nghiệp, khu vực sản suất kinh doanh và các tổ chức kinh tế xã
hội khác. Sự chênh lệch quá lớn này làm mất đi ý nghĩa và mục đích của bảo hiểm xã
hội.
Thành lập các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép việc cải cách từng chế độ được thuận
lợi hơn nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội phù hợp nguyện vọng và ý
chí của người lao động, với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước.
4. Các chế độ có mục đích sử dụng và cơ chế đóng góp khác nhau
Mục đích của BHXH là nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp các rủi ro
trong và cả ngoài quá trình lao động, tuy nhiên mục đích của việc chi trả trợ cấp các chế
độ BHXH có khác nhau. Trợ cấp ngắn hạn nhằm bù đắp phần thu nhập tạm thời bị mất
của người lao động và sẽ kết thúc khi người lao động đi làm trở lại, ngay cả trong trường
hợp họ chưa thể đi làm trở lại thì việc trợ cấp vẫn có thể kết thúc theo quy định về thời
gian tối đa người lao động được hưởng trợ cấp. Còn trợ cấp dài hạn nói chung không
quy định giới hạn về thời gian người lao động được hưởng do khả năng lao động bị suy
giảm không thể phục hồi, do đó trợ cấp dài hạn có mục đích đảm bảo ổn định đời sống
người lao động trong thời gian dài.
Cũng do mục đích khác nhau của các chế độ ngắn hạn và dài hạn mà cơ chế đóng góp
BHXH cho mỗi chế độ cũng khác nhau: Xác định mức đóng góp cho các chế độ ngắn
hạn dựa vào cơ chế đánh giá hàng năm những chi phí có thể sảy ra, còn với các chế độ
dài hạn thì việc xác định mức đóng góp phải dựa trên một khoảng thời gian tương đối
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
58
dài quá trình đóng góp và hưởng trợ cấp cùng với những thay đổi có thể xảy ra trong
thời gian đó. Nói chung, quy trình định phí BHXH đối với các chế độ dài hạn phức tạp
hơn.
Việc tổ chức các quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép phát huy được tính độc lập tương
đối của từng loại quỹ nhưng vẫn giữ được tính thống nhất của các hệ thống quỹ BHXH.
5. Đáp ứng được chiến lược đầu tư dài hạn và ngắn hạn
Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa được dùng đến cần
được dùng để đầu tư nhằm:
- Bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ;
- Góp phần phát triển nền kinh tế đất nước.
Đối với các chế độ dài hạn, lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ đôi khi rất lớn (do tính chất
tích luỹ của quỹ) và trong một khoảng thời gian tương đối dài do đó đầu tư hài hạn với
lợi nhuận cao là thích hợp nhằm đảm bảo khả năng chi trả trợ cấp BHXH cho người lao
động trong tương lai.
Các chế độ ngắn hạn thực hiện cơ chế thu đến đâu chi đến đấy, tuy nhiên như thế không
có nghĩa là không có một lượng tiền nhàn rỗi trong quỹ, đó là phần được trích lập cho
những sự cố có thể sảy ra ngoài dự tính (đó là phần an toàn trong công thức xác định phí
BHXH ) và phần này nên được đưa vào đầu tư ngắn hạn với tính thanh khoản cao.
Do đó việc thành lập quỹ BHXH thành phần sẽ cho phép chúng ta thực hiện chiến lược
đầu tư (đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn) có hiệu quả hơn để từ đó nâng cao hiệu quả
quỹ BHXH.
6. Phù hợp với nguyên tắc đổi mới của bảo hiểm xã hội
Theo quan điểm của BHXH thì: “Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước
phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể ”.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
59
Nền kinh tế nước ta hiện nay đã có những bước phát triển đáng kể, GDP bình quân tăng,
đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, người lao động có khả năng
hơn trong việc tham gia BHXH, với sự kết hợp cả hình thức bắt buộc và tự nguyện tham
gia BHXH, trong thời gian tới số lượng người lao động tham gia BHXH ngày một lớn ở
mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế do đó ngành Bảo hiểm xã hội sẽ gặp khó khăn
trong công tác quản lý đối tượng, thực hiện chi trả trợ cấp đòi hỏi ngành Bảo hiểm xã
hội phải đổi mới nhằm đáp ứng khả năng cũng như nhu cầu tham gia BHXH của người
lao động.
Việc thành lập quỹ BHXH thành phần phù hợp với yêu cầu đổi mới và chúng ta hoàn
toàn có thể thực hiện được. Với hơn 6 năm hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt nam và
hơn 30 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, đội ngũ cán bộ BHXH đã qua thực
tiễn và có nhiều kinh nghiệm, với trình độ tổ chức và quản lý có thể đáp ứng được yêu
cầu đổi mới BHXH.
iI. Những thuận lợi và khó khăn
1. Thuận lợi
- Chính sách bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn, luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Bảo hiểm xã hội Việt
nam thường xuyên nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, sự quan
tâm, tạo điều kiện của các Bộ, Ngành liên quan.
- Trong những năm qua, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã đạt được những thành tựu
to lớn góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội đã tạo
được niềm tin từ phía người lao động, làm cho người lao động ngày càng quan tâm, gắn
bó mật thiết hơn với chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
60
để cơ quan BHXH phục vụ người lao động ngày càng tốt hơn và việc thành lập quỹ
BHXH thành phần sẽ được người lao động đồng tình ủng hộ.
- Đội ngũ cán bộ bảo hiểm xã hội qua thực tiễn công tác đã thể hiện bản lĩnh chính
trị vững vàng, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH, tiếp thu những kiến thức mới về
khoa học quản lý, tin học, ngoại ngữ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh
mới.
2. Khó khăn
- Bảo hiểm xã hội Việt nam mới trải qua hơn 6 năm thành lập và trưởng thành,
trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, Bảo hiểm xã hội Việt nam phải
thực hiện nhiều công việc trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, kiện toàn bộ
máy hoạt động Do đó trong tổ chức hoạt động vẫn còn nhiều bất cập.
- Hiện nay chúng ta chưa có luật BHXH, do đó trong quá trình tổ chức thực hiện
chính sách BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa có sự phân định rõ giữa quản lý nhà
nước và quản lý sự nghiệp BHXH, cán bộ BHXH không có đủ phương tiện thực hiện
các biện pháp chế tài khi người lao động, chủ sử dụng lao động vi phạm điều lệ
BHXH…
- Trong quá trình hoạt động, BHXH Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn do
ngành mới thành lập, các chế độ BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, chuẩn hoá đội
ngũ cán bộ BHXH, kiện toàn cơ cấu tổ chức cũng như thống nhất cơ chế quản lý quỹ
BHXH.
III. Thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam
1. Quỹ bảo hiểm xã hội ngắn hạn
a, Các chế độ ngắn hạn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
61
Các chế độ ngắn hạn được xác định dựa vào thời gian chi trả trợ cấp (nói cách khác là
dựa vào thời gian hưởng trợ cấp tối đa) và thường là dưới một năm. Đặc trưng của các
chế độ này là chi phí hàng năm thường ổn định khi thể hiện cả ở tỷ lệ thu hàng năm về
bảo hiểm cũng như mức hưởng bình quân cho một người tham gia, qua một khoảng thời
gian dài tính thường xuyên trong một năm.
Quỹ BHXH ngắn hạn được hình thành từ sự tham gia các chế độ ngắn hạn và được dùng
riêng biệt để chi trợ cấp cho các chế độ này và các khoản chi phí cho hoạt động sự
nghiệp.
Cơ chế tài chính của các chế độ ngắn hạn là thu đến đâu chi đến đấy hoặc theo cơ chế
đánh giá hàng năm. Trong cơ chế không có dự trữ này, các mức đóng góp được xác định
ở mức sao cho hàng năm, các mức này (cộng với thu nhập từ đầu tư ) phải thoả đáng để
đáp ứng với các chi phí cho các chế độ và chi phí quản lý hàng năm. Để duy trì tỷ lệ
đóng góp ổn định, một khoản chênh lệch nhỏ được bổ xung cho tỷ lệ đóng góp và quỹ
tăng do khoản bổ xung này được đưa vào đự phòng các sự cố.
Bảo hiểm xã hội Việt nam hiện nay đang thực hiện các chế độ ngắn hạn bao gồm:
Chế độ ốm đau (đặc trưng bởi thời gian hưởng trợ cấp ốm đau tối đa là từ 30 đến 50
ngày đối với người làm việc trong điều kiện bình thường ).
Chế độ thai sản (thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp tối đa là 4 tháng đối với người làm
việc trong điều kiện bình thường).
Chế độ TNLĐ-BNN trợ cấp một lần với mức suy giảm khả năng lao động từ 5%-30%.
Chế độ tử tuất trợ cấp một lần.
b, Xác định mức đóng góp BHXH
Mức đóng góp BHXH được ấn định vào đầu năm, sau đó được điều chỉnh vào cuối năm
tuỳ theo tình hình thực tế trong năm. Tỷ lệ đóng góp được ấn định trước trên cơ sở các
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
62
đánh giá tài chính bảo hiểm cả dựa vào thực tế trước đây của hệ thống cũng như thực tế
rút ra từ các hệ thống khác. Điều quan trọng là tỷ lệ đóng góp được ấn định theo cách nó
giữ được ổn định càng lâu càng tốt mà không cần đến việc ấn định quá cao.
Trong công thức xác định phí BHXH, phí thuần tuý được xác định như sau:
Ptt = Chi phí có thể sảy ra cho các chế độ
Hay Ptt =N.f.m.k
Trong đó N: Số người tham gia
f: Tần suất xảy ra rủi ro
m: Số ngày bình quân của một trường hợp rủi ro
k: Chi phí bình quân cho một ngày
Những thành phần trong tính toán thực tế sẽ phụ thuộc vào công thức trong đó số liệu có
thể thu thập được thông quy các phương pháp thống kê (cuả một số năm trước đó), điều
tra chọn mẫu và các phương pháp dự báo. Khi điều chỉnh phí bảo hiểm dựa vào sự thay
đổi của các thành phần trong công thức trên.
Điều quan trọng là sau khi xác định được tổng chi phí cho các chế độ (hay tổng phí
thuần tuý) ta phải gắn nó với tổng mức tiền lương hàng năm làm căn cứ đóng BHXH
theo một tỷ lệ nhất định.
Sau đây là một ví dụ xác định mức đóng góp đối với chế độ ốm đau.
Các giả định:
Mức hưởng trợ cấp ốm đau = 50% tiền lương ngày
Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội N = 100.000
Tần số sảy ra rủi ro f = 1
Số ngày bình quân một trường hợp rủi ro m = 16
Tiền lương bình quân năm s = 1.200
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
63
Có 300 ngày làm việc trong một năm
Từ các giả định trên chúng ta tính được:
Chi phí bình quân cho một ngày k = 50%x1200/300 = 2
Tổng chi phí cho một năm = 100.000x0,5x16x2 = 1.600.000
Tổng tiền lương một năm làm căn cứ đóng góp là:
Nxs = 100.000x1200 =120.000.000
Vậy tỷ lệ đóng góp
Ptt = Tổng chi phí cho một năm/Tổng tiền lương đóng bảo hiểm
= 1.600.000/120.000.000 =0,0133 =1,33% của tiền lương đóng bảo hiểm.
2. Quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn
a, Các chế độ dài hạn
Các chế độ dài hạn được phân biệt với các chế độ ngắn hạn bởi thời gian hưởng trợ cấp,
thời gian hưởng trợ cấp dài và thường không xác định được một cách chính xác một
người sẽ được hưởng trợ cấp trong khoảng thời gian bao lâu mà chỉ có thể xác định được
khoảng thời gian trung bình mà người lao động được hưởng trợ cấp. Đây cũng là một
trong những cơ sở để xác định mức đóng góp BHXH.
Cơ chế tài chính đối với các chế độ dài hạn là cân đối thu- chi BHXH trong một khoảng
thời gian dài ( khoảng thời gian người lao động tham gia và đóng BHXH ) trước ảnh
hưởng của những nhân tố có thể làm tăng chi phí hàng năm:
- Khi chế độ BHXH dài hạn dựa vào thu nhập của người tham gia BHXH thì mức bảo
hiểm bình quân năm sẽ tăng mỗi năm tại thời điểm hoặc gần với thời điểm mà người đó
đủ điều kiện để hưởng chế độ BHXH dài hạn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
64
- Người hưởng BHXH dài hạn những năm trước sẽ tiếp tục được nhận chế độ dài hạn và,
bởi vì tuổi thọ ngày càng tăng, người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn trong tương
lai sẽ nhận bảo hiểm xã hội với một thời gian hưởng dài hơn.
- Chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn đã được chi trả có thể được tăng tuỳ theo mức tăng tiền
lương hoặc giá cả sinh hoạt.
Các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn bao gồm:
Chế độ hưu trí: Với mức trợ cấp hàng tháng tối đa bằng 75% tiền lương bình quân 5 năm
trước khi hưởng trợ cấp.
Chế độ TNLĐ-BNN trợ cấp hàng tháng.
Chế độ tử tuất trợ cấp hàng tháng.
Quỹ BHXH dài hạn được hình thành từ sự đóng góp của người lao động tham gia các
chế độ dài hạn.
b, Xác định mức đóng góp BHXH
Với cơ chế thu đến đâu chi đến đó
Trong một hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn, theo nguyên tắc, tổng số hưởng chế độ sẽ
tăng lên hàng năm trong một thời gian dài. Thời điểm mà hệ thống đạt được sự chín
muồi phụ thuộc vào một loạt các yếu tố như dân số và kimh tế, cũng như phụ thuộc vào
những quy định pháp lý về quản lý hệ thống.
Trong hệ thống với cơ chế tài chính thu đến đâu chi đến đó không được tạo nguồn,
không có quỹ được tạo ra từ trước, và mức hưởng trong hệ thống dài hạn này sẽ được trả
bằng những đóng góp hiện tại. Với đặc điểm chi phí hàng năm ngày càng tăng trong hệ
thống bảo hiểm xã hội dài hạn, nếu cơ chế thu đến đâu chi đến đó được áp dụng, tỷ lệ
đóng góp (theo phần trăm tiền lương của người tham gia bảo hiểm) có thể sẽ thấp trong
thời kỳ hệ thống mới hình thành và sẽ tăng hàng năm trong rất nhiều năm sau đó.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
65
Tuy nhiên trong hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn đã chín muồi, khi việc phân bố tuổi
của đân số đã đạt được mức độ ổn định và số thu hàng năm tương ứng với số chi hàng
năm thì cơ chế tài chính thu đến đâu chi đến đó lại tỏ ra thích hợp vì nó cho phép loại trừ
được ảnh hưởng của lạm phát.
Cơ chế với mức bảo hiểm bình quân tổng thể
Tỷ lệ đóng góp trong cơ chế này là tỷ lệ được ấn định theo tỷ lệ phần trăm của thu nhập
hàng năm làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó, trong một hệ thống bảo hiểm xã hội
dài hạn điển hình, mức chi trả hàng năm đối với các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn có
tỷ lệ tăng dần theo thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và từ đó, tỷ lệ đóng góp
được thiết lập ở mức độ bảo đảm cân đối tài chính trong thời gian không hạn định giữa
thu và chi của hệ thống, điều hiển nhiên là trong những năm đầu (và thường là rất nhiều
năm) tỷ lệ đóng góp sẽ vượt quá tỷ lệ được áp dụng trong cơ chế thu đến đâu chi đến đó.
Do vậy trong khoảng thời gian này, đóng góp hàng năm và thu nhập từ đầu tư của hệ
thống sẽ vượt quá chi hàng năm. Mức vượt quá này tạo ra một dự trữ mang tính kỹ thuật
(hoặc tài chính bảo hiểm) mà có thể được đầu tư và lãi suất từ đó sẽ bổ xung cho nguồn
thu nhập từ đóng góp, khi chi hàng năm thực tế vượt quá đóng góp hàng năm dựa trên
cơ chế tài chính với mức bảo hiểm bình quân tổng thể.
Trong hệ thống được tạo nguồn, dự trữ được dành để chi trả chế độ trong tương lai cần
được tăng lên khi mức chi trả chế độ dài hạn của hệ thống tăng. Trở ngại đối với cơ chế
này đó là ảnh hưởng của lạm phát dự trữ quỹ bảo hiểm, cũng như sự thay đổi về giá sinh
hoạt làm giảm giá trị thực tế của mức hưởng trong khi điều chỉnh mức chi trả các chế độ
là khó khăn (do tỷ lệ đóng góp đã được ấn định).
Một cơ chế tài chính thích hợp cho một hệ thống bảo hiểm xã hội dài hạn nên đáp ứng
những tiêu thức sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -