- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi được áp dụng cơ chế thí điểm bằng nguồn vốn
được đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, đến 12/1998 đã tập trung xây dựng 56 dự
án phát triển khu vực cửa khẩu Móng Cái với tổng số vốn 201 tỷ đồng. Chủ yếu
đầu tư vào các ngành giao thông, điện, cấp thoát nước, và các công trình phúc lợi
xã hội khác. Đã đưa vào sử dụng 10 cầu trên quốc lộ 18A (Móng Cái-Tiên Yên),
2 bến cảng, 1 bến xe, 55 km đường bộ: 173 km đường dây cáp 0,4 KV, và 125
trạm biến áp các loại, 83 km đường dây tải 22 KV, cấp điện cho sản xuất kinh
doanh và sinh hoạt ở khu vực cửa khẩu. Một nhà máy cấp nuớc công suất
5.400m2/ngày, một hệ thống cấp nước cho cư dân thị xã, một hệ thống thoát
nước 24 km, đã được đưa vào sử dụng. Xây dựng mới 60 phòng học cho các
trường phổ thông và 1 nhà trẻ (300 cháu), nâng cấp bệnh viện đa khoa; Xây mới
5000 m2 nhà cấp 2- cấp 3 cho các cơ quan chính quyền và các cơ quan quản lý
khu cửa khẩu.
- Về mặt xã hội: từ một khu vực nghèo của một huyện miền núi biên giới, với
kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là chủ yếu, Móng Cái nay đã biến thành một
khu vực phát triển mạnh, với cơ cấu kinh tế hoàn toàn thay đổi. Móng Cái đã trở
thành một khu đô thị có tốc độ phát triển nhanh, hạ tầng cơ sở tăng nhiều. Đời
sống của dân chúng được cải thiện rõ rệt, nhất là về các điều kiện vật chất: thu
nhập bình quân đầu người đã tăng từ 360 USD lên 472 USD vào năm 2002. Tỷ lệ
người nghèo giảm từ 17% xuống còn 11%.
Chúng ta có thể khẳng định rằng Móng Cái là một trong những cửa khẩu quốc tế
quan trọng nhất trên biên giới phía Bắc Việt Nam trong việc giao lưu với Trung
Quốc và các nước khác trong khu vực. Đặc biệt, Móng Cái tiếp giáp với thị xã
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đông Hưng là khu kinh tế mở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Khu kinh tế này
đang được xây dựng thành một thành phố lớn, hiện đại, đa chức năng và được
xác định là cửa ngõ để Trung Quốc đi vào thị trường Đông Nam á.
Móng Cái có hệ thống đường bộ, đường biển giao lưu trong nước và quốc tế
thuận lợi. Vùng ven biển có thể xây dựng các cảng nhỏ, (cả cảng du lịch và cảng
thương mại) Mũi Ngọc, Thọ Xuân. Đặc biệt cảng Vạn Gia là cảng chuyển tải
xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt-Trung qua khu vực này.
Móng Cái đã có 1 sân bay nhỏ có thể nâng cấp để phục vụ việc đi lại bằng hàng
không. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng như hệ thống thông tin viễn thông,
lưới điện 110 kv, đường 18A nối với thành phố Hạ Long, cảng biển Vạn Gia,
chợ, khách sạn, trung tâm hội chợ triển lãm, công viên đã được đầu tư nâng cấp.
Móng Cái có bãi biển Trà Cổ nổi tiếng với bãi cát phẳng, chạy dài 17km. Khu du
lịch Trà Cổ, Vĩnh Thực gắn với quần thể du lịch Hạ Long-Bái Tử Long càng tạo
ra sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong quy hoạch tổng thể phát triển khu vực Móng Cái
được phân thành 3 chức năng: khu thương mại quốc tế, khu du lịch và khu công
nghiệp.
Với những lợi thế của mình, Móng Cái là khu vực cửa khẩu giàu tiềm năng.
Nhằm đưa Móng Cái thành địa bàn có sức thu hút nhà đầu tư, doanh nghiệp trong
và ngoài nước.
Mặc dù có những mặt tích cực nêu trên thì còn có nhiều tồn tại hạn chế Quyết
định 675-TTg và 103-TTg áp dụng vào Móng Cái còn rất hạn hẹp, không đồng
bộ, mặt khác Nghị định số 57/CP ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ và
các Nghị định, thông tư giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu và đầu tư thì Quyết
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
định 675-TTg và 103-TTg chính sách ưu đã không còn nữa nên chưa tạo ra bước
phát triển nhanh, mạnh ,vững chắc ở khu vực Móng Cái về các lĩnh vực, đặc biệt
về kinh tế và lợi thế của cửa khẩu Móng Cái về thương mại – xuất nhập khẩu, du
lcịh, dịch vụ, cảng biển chưa được nhiều mặt. Mặt khác, mấy năm qua, Trung
Quốc đa tập trung xây dựng khu khai phát Đông Hưng (tiếp giáp với Móng Cái)
thành một khu kinh tế cửa khẩu phát triển với cơ chế chính sách ữu đãi đặc biệt
là đối tựợng hợp tác cạnh tranh trực tiếp về phát triển kinh tế – xã hội đối với thị
xã Móng Cái của ta.
2.1.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn
Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu
đường bộ Hữu Nghị; có 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (huyện Lộc Bình), Bình
Nghi (huyện Tràng Định), cửa khẩu Tân Thanh và 7 cặp chợ biên giới với Trung
Quốc. Lạng Sơn có 10 huyện và 1 thành phố, 266 xã, phường, thị trấn.
Ngày 11/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 748/TTg cho phép áp
dụng thí điểm một số cơ chế chính sách mới tại khu vực các cửa khẩu biên giới
giữa Lạng Sơn và Trung Quốc. Việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ
tướng đã được tỉnh xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nên đã tập
trung lực lượng để thực hiện. Sau một thời gian thực hiện, đã đạt được một số kết
quả ban đầu:
- Về xuất nhập cảnh (XNC) và du lịch: UBND Tỉnh đã cùng với các ngành hữu
quan thống nhất công tác quản lý XNC và hoạt động của người nước ngoài trên
địa bàn thông qua các Quyết định số 314 UB QĐ ngày 11/3/1998 của UBND tỉnh
về việc ban hành “Qui định tạm thời về XNC tại khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tân Thanh” và “Qui chế phối hợp tạm thời quản lý khách XNC qua ba cửa khẩu
và quản lý hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” : Hướng
dẫn người Trung Quốc và người nước ngoài khác nhập cảnh và tạm trú tại khu
vực thí điểm; cấp giấy phép cho người Trung Quốc vào các địa điểm khác trong
tỉnh; Cấp giấy thông hành cho người Việt Nam sang huyện biên giới của Trung
Quốc; quản lý người qua lại các cặp chợ tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh. Quyết
định số 468/UB ngày 18/4/1998 của UBND tỉnh qui định việc thu và sử dụng
phụ phí du lịch để đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn; chỉ định Công ty Du
lịch- XNC làm đầu mối đưa đón khách bằng thẻ du lịch, vv Hoạt động du lịch
tăng nhanh, bình quân tăng từ 13-18%/năm về lượng khách. Doanh thu du lịch
tăng khá, bình quân 15%/năm, lượng khách du lịch năm 2000 đến Lạng Sơn trên
180.00 lượt người, trong đó riêng khách quốc tế đã lên đến hơn 60.000 lượt
người. Năm 2004 lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ước đạt khoảng 301.800
người đây là một con số đáng khích lệ. Kể từ khi Quyết định số 53/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 19/4/2001 đã tạo đà cho sự phát triển
khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn ngày một mạnh mẽ hơn.
- Về thương mại- xuất nhập khẩu (XNK): Công tác xuất nhập khẩu đã có sự tăng
trưởng khá, đến nay đã có hơn 350 doanh nghiệp trong cả nước tham gia hoạt
động thương mại, xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu biên giới của Lạng Sơn
trong khi năm 1996 có 240 doanh nghiệp trong cả nước thực hiện xuất nhập khẩu
qua Lạng Sơn, năm 1998 là 268 và năm 1999 là 300 doanh nghiệp. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu 4 năm đạt 1.400 triệu USD. Điều đáng chú ý là hoạt động
ngoại thương qua khu vực cửa khẩu Lạng Sơn luôn suất siêu, các sản phẩm thuộc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nhóm hàng nông-lâm hải sản, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu, tạo điều kiện cho
sản xuất chế biến phát triển (năm 1997: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 303
triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 2000: tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu đạt xấp xỉ 700 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 500 triệu
USD). Năm 2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 1421 triệu USD.
Một số doanh nghiệp trong nước đã có sự liên doanh, liên kết với các doanh
nghiệp ở Lạng Sơn để tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu, chế biến sản phẩm tại
nơi sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo được công ăn việc
làm cho nhiều lao động… Để tạo đà cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại
Lạng Sơn đã khai trương phòng quản lý xuất nhập khẩu theo Quyết định số
0679/QĐ-BTM ngày 1/6/2004 của Bộ thương mại. Phòng quản lý xuất nhập
khẩu khu vực Lạng Sơn thực hiện cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá mẫu E
tại thành phố Lạng Sơn cho các doanh nghiệp và thương nhân trong và ngoài tỉnh
xuất khẩu hàng hoá nông sản, trái cây Việt Nam sang thị trường Trung Quốc qua
các cửa khẩu của Lạng Sơn và toàn quốc từ 01/02/2005.
- Về hoạt động đầu tư: Cho tới năm 2004 có trên 10 dự án đầu tư đã và đang
triển khai tại khu kinh tế cửa khẩu với tổng số vốn lên đến hàng trăm tỉ đồng,
trong đó là phần lớn là các dự án đầu tư nước ngoài. Hiện nay tại Tân Thanh có
hàng chục đơn vị trong nước đa đăng kí thuê đất đầu tư và một số đơn vị của Việt
Nam đã và đang làm thủ tục liên doanh với các công ty nước ngoài vốn đầu tư
trên 15 triệu USD. Số vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực cửa khẩu tuy còn nhỏ
bé nhưng đã nói lên sự hấp dẫn của khu kinh tế cửa khẩu này, vì thời gian xây
dựng chưa nhiều và còn nhiều việc đang tiếp tục triển khai. Công tác tổ chức thu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngân sách đã có nhiều tiến bộ, tăng trưởng khá hơn, thường năm sau cao hơn
năm trước, và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Từ đó có nguồn để đầu tư trở lại
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu và
các hoạt động thương mại trên địa bàn. Trong hơn sáu năm tính từ khi thành lập
khu kinh tế cửa khẩu, tổng số vốn được đầu tư trở lại cho khu kinh tế cửa khẩu
hơn 1000 tỷ đồng.
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cho đến tháng 1 năm 2000, đã triển khai thực hiện
giá trị khối lượng hoàn thành là 150,830 tỷ đồng; đã bàn giao đưa vào sử dụng 54
dự án được phê duyệt với tổng đầu tư là 292,201 tỷ đồng. Trong đó, dự án giao
thông có 15 hạng mục với số vốn 138,6 tỷ đồng; dự án điện nước có 10 hạng
mục với số vốn 36,4 tỷ đồng; dự án giáo dục y tế có 5 hạng mục, với số vốn 24,8
tỷ đồng; các công trình công cộng và quản lý nhà nước có 24 hạng mục với số
vốn 92,5 tỷ đồng. Các cơ sở vật chất được xây dựng nhanh, quy hoạch được xây
dựng và xét duyệt kỹ, từ đó các tuyến đường giao thông được xăy dựng và mở
rộng, nâng cấp tốt hơn, hệ thống đường nội thị ở cửa khẩu được xây dựng cơ bản
hoàn thành, hệ thống cấp, thoát nước được xây dựng, điện chiếu sáng, thông tin
liên lạc được đảm bảo, nhiều khách sạnm khu thương mại, nhà nghỉ và các cơ sở
dịch vụ khác được xây dựng mới, đảm bảo điều kiện phục vụ tốt hơn. Đã chú
trọng tập trung ưu tiên một được số dự án đầu tư phục vụ đảm bảo quốc phòng an
ninh khu vực và các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng. Một số khu du lịch
cũng được khôi phục hoặc đầu tư xây dựng mở rộng nhe: khu du lịch Mẫu Sơn-
thuộc xã biên giới huyện Lộc Bình, nằm trên độ cao 1200m so với mặt nước
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
biển, khu du lịch thắng cảnh Tam-Nhị Thanh, thành nhà Mạc, và nhiều cơ sở
dịch vụ du lịch khác ở Đồng Đăng, Hữu Nghị v.v…
Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn đã được xây dựng:
+ Quốc lộ 1A: là tuyến Quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan qua địa
phận Lạng Sơn về Hà Nội
+ Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên
+ Quốc lộ 4B: Lạng Sơn đi Cao Bằng
+ Quốc lộ 4A: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xa Móng Cái-Quảng Ninh
+ Quốc lộ 31: Đình Lập-Bắc Giang
+ Quốc lộ 279: Bắc Cạn-Bình Gia (Lạng Sơn)
+ Các tuyến đường sắt:
+ Đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội-Trung Quốc chạy qua địa phận Lạng Sơn
khoảng trên 100 km.
+ Đường sắt Lạng Sơn-Na Dương
Con đường thông thương giữa các khu kinh tế cửa khẩu của Lạng Sơn với các
địa bàn khác trong nước cũng như ngoài nước là khá thuận tiện với chất lượng
ngày càng được nâng cao.
- Về thu ngân sách: Trong 2 năm 1997-1998, số thu trên địa bàn thí điểm đạt
bình quân 154 tỷ đồng. Năm 1999, số thu trên địa bàn đạt 276,704 tỷ đồng,
chiếm 67% tổng thu ngân sách của tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 2001 đến nay mỗi
năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-25% so với năm trước. Năm 2002 số
thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 687,5 tỉ đồng; năm 2003 đạt 825 tỉ đồng; năm
2004 đạt xấp xỉ 950 tỉ đồng. Con số này thể hiện công tác quản lý nguồn thu,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chống buôn lậu và gian lận thương mại được thực hiện tốt nhờ đó mà tạo ra môi
trường thông thoáng cho hoạt động thương mại xuất nhập khẩu phát triển, làm
nguồn thu ở mức cao mặc dù thời điểm đó kinh tế các nước trong khu vực đang
bị khủng hoảng.
Các kết quả trên cho thấy sự nỗ lực của các cấp các ngành địa phương trong việc
tổ chức thực hiện, quản lý và phối hợp một cách nghiêm túc trong thời gian qua.
Trong thời gian gần đây nếu được Chính phủ cho phép Lạng Sơn tiếp tục thực
hiện các chính sách đã được ban hành với sự điều chỉnh bổ sung cho thích hợp
với tình hình thực tế thì trong vòng vài năm trước mắt bộ mặt khu vực cửa khẩu
biên giới sẽ có sự thay đổi cơ bản theo chiều hướng tạo điều kiện cho sự hội nhập
của nước ta với khu vực và thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện,
nền kinh tế tỉnh phát triển lên một trình độ mới vững chắc.
Tuy nhiên để có thể có những bước tiến như trên đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của
các cấp các ngành địa phương để có thể khắc phục được một số những hạn chế
còn tồn tại sau:
- Sự điều hòa phối hợp chính sách chưa được đồng bộ, chưa thực sự thông
thoáng. Các chính sách về XNC, XNK, quản lý thu đổi tiền tại các khu vực biên
giới chưa được điều chỉnh kịp thời; chưa mạnh dạn phân cấp cho địa phương tự
quyết định đầu tư trong XDCB; chưa giải quyết được việc cấp hóa đơn thu thuế
cho lưu thông hàng hoá nhập theo Quy chế chợ biên giới Việt – Trung.
- Các chính sách còn chưa thể hiện được sự ưu tiên đặc biệt đối với khu vực kinh
tế cửa khẩu. Ngoài chính sách về tài chính, hầu hết vẫn thực hiên theo các qui
định chung của cả nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Ta chưa có một cơ quan thống nhất quản lý điều hành các hoạt động giao lưu
kinh tế với Trung Quốc; chưa có tổ chức nghiên cứu thị trường một cách đầy đủ,
kịp thời nắm những thông tin cần thiết để có đối sách phù hợp.
- Các sản phẩm du lịch của tỉnh còn đơn giản, chưa tương xứng với tiềm năng
vốn có của địa phương nên chưa có sức lôi cuốn du khách lưu lại. Công tác khảo
sát thiết kế một số công trình chưa sát với thực tế nên trong quá trình còn phải bổ
sung nhiều.
- Mặc dù đã có nhiều cải cách về quy trình thủ tục trong công tác XNK, XNC,
kiểm dịch tại các cửa khẩu, nhưng vẫn còn nhiều phiền hà nảy sinh tiêu cực
thông qua thực hiện công tác chuyên môn. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho
công tác kiểm dịch còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
2.1.3 Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng
Khu kinh tế cửa khẩu ở Cao Bằng được thành lập theo Quyết định số
171/1998/QĐ-TTg ngày 09/9/1998 của Thủ tường Chính phủ, bao gồm ba khu
vực: khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng rộng 500 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Hùng
Quốc rộng 30 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Sóc Giang rộng 58 ha và một số xã,
được ưu tiên phát triển thương mại, đầu tư, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch,
công nghiệp và nông nghiệp theo luật pháp của Việt Nam phù hợp với thông lệ
quốc tế. Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh nhận thấy việc áp dụng các chính sách
ưu đãi là một cơ hội rất lớn để có thể khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh. Khi
các hoạt động kinh tế tại khu vực cửa khẩu được đẩy mạnh có tác dụng thúc đẩy
phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế; tác động đến các
mặt kinh tế, đời sống và quốc phòng an ninh, phát triển mối quan hệ giữa trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nước và nước ngoài. Do đó ngày 19/12/1998 UBND tỉnh đã ra Quyết định số
2461/QĐ-UB thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện QĐ 171/1998/TTg. Sau
đó vào ngày 5/2/1999 UBND tỉnh đã ra Quyết định số 122/1999/QĐ-UB giao chỉ
tiêu kế hoạch năm 1999, nguồn thu để lại cửa khẩu là 14 tỉ đồng để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng theo đề án. Bên cạnh đó là một số văn bản khác được ban
hành của các cấp từ Trung ương xuống địa phương để triển khai thực hiện.
Với tinh thần trên tỉnh Cao Bằng đã có những thành tựu về phát triển kinh tế như:
Tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng rõ rệt; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
ngày càng hợp lý; công nghiệp tăng mạnh trong thời gian gần đây, nông nghiệp
đã có xu hướng giảm dần, dịch vụ tăng ở mức hợp lý. Đặc biệt là hoạt động xuất
khẩu chính ngạch tăng mạnh, năm 2003 tổng giá trị xuất khẩu đạt 39 triệu USD,
thì năm 2004 đã đạt tói 40,75 triệu USD,. Năm 2003 thu thuế xuất nhập khẩu
được 49,01 tỉ đồng, năm 2004 được 59,9 tỉ đồng, tăng 22% so với năm 2003.
Trong đó thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 2 khu vực kinh tế cửa khẩu đạt
trên 38,9 tỉ đồng chiếm 65% tổng số thu thuế xuất nhập khẩu năm 2004. Và trong
những năm gần đây tỉ lệ tăng nay không những không giảm mà còn có xu hướng
tăng mạnh hơn.Điều đó càng khẳn định rõ hơn sự đúng đắn và phù hợp của chính
sách áp dụng tại khu vực kinh tế cửa khẩu.
Bên cạnh những mặt làm được vẫn còn có một số mặt chưa được làm tốt như:
- Việc phổ biến, tuyên truyền đề án chính sách phát triển kinh tế tại các khu vực
cửa khẩu chưa được sâu rộng trên phương tiện đại chúng. Do đó chưa thu hút
được vốn của các nhà đầu tư trong tỉnh, trong nước và nước ngoài.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Cơ sở hạ tầng tại các khu vực kinh tế cửa khẩu còn yếu kém và chưa đồng bộ.
Mức đầu tư còn thấp nên ảnh hưởng đến tiến bộ thi công, mặt khác việc chuyển
vốn cho tỉnh còn chậm. Ngoài những hạn chế nêu trên thì tỉnh cũng có những
mặt hạn chế chung giống như các khu kinh tế cửa khẩu khác.
2.1.4. Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai
Khu kinh tế cửa khẩu ở Lào Cai được thành lập theo Quyết định số 100/1998QĐ-
TTg vào ngày 26/5/1998. Đây là một quyết định có ý nghĩa quan trọng, tạo hành
lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở khu vực cửa khẩu biên giới tỉnh
Lào Cai, phù hợp với thực tế khách quan, khuyến khích, động viên cán bộ, chiến
sỹ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai nói chung và các địa phương được áp
dụng các chính sách nói riêng để khơi dậy vị thế, tiềm năng của vùng kinh tế vừa
có cửa khẩu quốc tế, quốc gia, lối mở, vừa có đường sắt, đường bộ, đường thủy
thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, phát triển dịch vụ-du lịch trong khu vực
và quốc tế. Và do đó tỉnh Lào Cai đã có được những kết quả báo hiệu những tín
hiệu tốt đẹp. Điều đó được thể hiện thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
- Về xuất nhập khẩu- thương mại: Tính đến nay đã có trên 100 doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai và đang hoạt động khá
hiệu quả. Đến nay đã có khoảng 10 chợ biên giới họp hàng ngày và họp phiên
vào các ngày Chủ nhật trong tuần đã tạo điều kiện cho việc giao lưu trao đổi
hàng hoá, kích thích sản xuất phát triển. Hội chợ thương mại du lịch quốc tế xuân
năm 2000 đã được tổ chức tại khu vực kinh tế cửa khẩu Lào Cai trong tháng 1
với sụ góp mặt của 62 doanh nghiệp trong đó có 15 doanh nghiệp Trung Quốc,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
47 doanh nghiệp Việt Nam.Thông qua hội chợ các nhà sản xuất kinh doanh có cơ
hội giói thiệu sản phẩm của mình với bạn hàng và ký kết nhiều hợp đồng kinh tế.
- Về du lịch: đã có những bước tiến đáng kể, các hình thức du lịch đã phong phú
hơn với chất lượng tốt hơn, công tác xuất nhập cảnh do có qui định quản lý xuất
nhập cảnh thông thoáng nên đã tạo điều kiện làm tăng thêm lượng khách đến
tham quan và du lịch Việt Nam. Ngoài ra với sự phối hợp của các ngành các cấp
địa phương thì tình hình an ninh trật tự luôn được giữ ổn định và các hình thức
buôn lậu, gian lận thương mại đã giảm mạnh.
- Về hoạt động thu ngân sách: đầu tư xây dựng cơ bản khu vực kinh tế cửa khẩu:
Thu ngân sách tăng ở nhưng con số đáng ngạc nhiên càng thể hiện sự đúng đắn
của Đảng và Nhà nước trong việc ra Quyết định thành lập các khu kinh tế cửa
khẩu. Nếu so sánh 1999 với 1998 thì tổng thu ngân sách đã tăng xấp sỉ 90% đây
là một con số rất đàng mừng. Trong những năm gần đây thì sự gia tăng của tổng
thu ngân sách hàng năm vẫn được duy trì ở mức cao.Vấn đề đầu tư XDCB khu
kinh tế cửa khẩu được UBND tỉnh rất coi trọng, hàng năm luôn có trên 30 danh
mục dự án được khởi công và hàng chục các danh mục thiết kế quy hoạch, chuẩn
bị đầu tư. Với số vốn đầu tư cho XDCB lên đến hàng chục tỉ đồng đã tạo ra cho
Lào Cai một hệ thống mạng lưới giao thông khu kinh tế cửa khẩu về cơ bản là
hoàn thiện theo quy hoạch. Và một số danh mục xây dựng khác cũng đã đat
những tiêu chuẩn nhất định không chỉ về măt thời gian tiến độ mà còn cả về mặt
chất lượng cũng được đảm bảo.
- Về hoạt động đối ngoại: đã có những cuộc gặp gỡ đàm phán tốt đẹp giữa Việt
Nam và Trung Quốc mở ra những bước tiến mới trong quan hệ hai nước. Nhiều
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh nghiệp bên Trung Quốc cũng đã và đang có ý định đầu tư vào khu kinh tế
cửa khẩu của chúng ta.
Tình hình thực hiện cơ chế chính sách cơ chế quản lý, chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề điều kiện và pháp lý để thúc đẩy phát triển kinh
tế- xã hội khu vực kinh tế cửa khẩu; Sự chỉ đạo đồng bộ của tỉnh và sự phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành, trong công tác triển khai Luật thương mại, hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu phát triển; do cơ chế, chính sách trợ giá, trợ cước
vận chuyển, khuyền khích người dân sản xuất, cho vay vồn với lãi suất ưu đãi, hỗ
trợ lãi suất phát triển, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung… đời
sống vật chất, tinh thần cả nhân dân các dân tộc được nâng lên một bước, lập lại
trật tự trong kinh doanh xuất nhập khẩu, công tác quản lý thị trường, chống buôn
lậu qua biên giới đạt kết quả tốt. Công tác quản lý xuất nhập cảnh do có qui định
thông thoáng nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, nhân dân qua lại cửa
khẩu; đã hạn chế việc xuất, nhập cảnh trái phép; khách du lịch theo Tour, tuyến
đường dài đến các điểm du lịch cho phép trong nước bằng thẻ du lịch thuận lợi
và nhanh chóng hơn. Do cơ chế được để lại không đướ 50% nguồn thu từ khu
vực kinh tế cửa khẩu nên bước đầu lết cấu hạ tầng- kinh tế xã hội đã được đầu tư
tạo dần bộ mặt khu vực cửa khẩu quốc tế khang trang hơn.
Cửa khẩu Lào Cai-Hà Khẩu được hình thành và đóng vai trò quan trọng trong
quan hệ giao thoa giữa Việt Nam với vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc đã
từ bao đời nay bởi vị trí đặc biệt của nó.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -