HOA KỲ HỌC:
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
Những cuộc cải cách như vậy đã khiến nhiều người phụ nữ nhận thức được vị
trí bất bình đẳng của họ trong xã hội. Từ thời thuộc địa, những phụ nữ chưa chồng
đã được hưởng nhiều quyền hợp pháp như nam giới, tuy nhiên phong tục buộc họ
phải lấy chồng sớm. Khi đã kết hôn thì phụ nữ đã thực sự mất đi những quyền của
họ trước luật pháp. Phụ nữ không được phép đi bầu cử và việc học hành của họ
vào các thế kỷ XVII và XVIII chủ yếu chỉ ở mức biết đọc, biết viết, âm nhạc,
khiêu vũ và may vá.
Sự thức tỉnh của phụ nữ bắt đầu với cuộc đi thăm Mỹ của Frances Wright, một
giảng viên và nhà báo Scotland, người đã công khai khuyếch trương các quyền của
phụ nữ ở khắp nước Mỹ vào những năm 1820. Vào thời gian này phụ nữ bị cấm
phát biểu ở những nơi công cộng, thì Wright không chỉ lớn tiếng phát biểu mà còn
khiến chủ tọa kinh ngạc bởi những quan điểm của bà bênh vực quyền của phụ nữ
tìm kiếm thông tin về việc kiểm soát sinh đẻ và ly dị. Đến những năm 1840, một
phong trào vì quyền phụ nữ Mỹ đã nổi lên. Lãnh đạo đầu tiên của phong trào này
là Elizabeth Cady Stanton.
Vào năm 1848, Cady Stanton và đồng nghiệp là Lucretia Mott đã tổ chức một
hội nghị quyền phụ nữ - hội nghị phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thế giới tại Seneca
Falls bang New York. Các đại biểu đã soạn thảo một Tuyên ngôn Tình cảm yêu
cầu quyền bình đẳng với đàn ông trước pháp luật, quyền bầu cử, cơ hội công bằng
trong giáo dục và việc làm. Các nghị quyết được nhất trí thông qua trừ nghị quyết
về quyền đi bầu cử. Nghị quyết này sau đó đã giành được đa số phiếu chỉ sau khi
Frederick Douglas, một người da đen theo chủ nghĩa bãi nô, phát biểu một bài gây
xúc động mạnh ủng hộ nghị quyết này.
Tại Seneca Falls, Cady Stanton đã trở nên nổi tiếng với tư cách vừa là nhà văn
vừa là người lớn tiếng ủng hộ quyền phụ nữ. Bà đã nhận thấy từ rất sớm rằng nếu
không có quyền bỏ phiếu, phụ nữ không bao giờ có thể bình đẳng với nam giới.
Noi gương William Lloyd Garrison, một người ủng hộ bãi nô, bà phát hiện thấy
rằng mấu chốt để đi tới thành công nằm ở chỗ thay đổi quan điểm của công chúng,
chứ không phải là hành động của Đảng. Seneca Falls đã trở thành chất xúc tác cho
sự thay đổi trong tương lai. Chẳng bao lâu sau, các hội nghị khác về quyền khác
của phụ nữ đã được tổ chức. Những người phụ nữ khác tiên phong bước lên tuyến
đầu của phong trào đấu tranh bình đẳng chính trị và xã hội của họ.
Cũng vào năm 1848, Ernestine Rose, một người nhập cư Ba Lan đã đấu tranh
để một đạo luật được thông qua tại bang New York. Đạo luật này cho phép phụ nữ
đã kết hôn được giữ phần tài sản của mình theo tên của mình. Trong số những luật
lệ đầu tiên loại này ở Mỹ thì Đạo luật về tài sản phụ nữ đã kết hôn đã khuyến
khích các cơ quan lập pháp bang khác ban hành các luật tương tự.
Vào năm 1869, Elizabeth Cady Stanton và một nhà đấu tranh tích cực chủ đạo
khác cho nữ quyền, Susan B. Anthony, thành lập Hiệp hội quốc gia về quyền bầu
cử của phụ nữ (NWSA), hiệp hội này ủng hộ một Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp
về quyền phụ nữ được đi bầu cử. Hai người này sẽ trở thành những người bênh
vực ủng hộ thẳng thắn nhất của phong trào phụ nữ. Khi mô tả sự hợp tác hoạt
động của họ, Cady Stanton nói "Tôi đã tạo nên các tiếng sét còn chị ấy bắn những
tiếng sét ấy".
TÂY TIẾN
Miền biên giới đã làm được nhiều điều để tạo dựng nên cuộc sống của nước Mỹ.
Những điều kiện ở dọc toàn bộ vùng bờ biển Đại Tây Dương đã kích thích di dân
tới những khu vực mới mẻ hơn. Từ New England nơi đất đai đã không thể đem lại
những năng suất ngũ cốc cao, đã xuất phát cả một dòng người đều đặn gồm những
người đàn ông và đàn bà rời các trang trại và làng mạc vùng ven bờ biển của họ tới
vùng đất nội địa màu mỡ của lục địa. Ở các khu định cư miền xa xôi của các bang
Nam và Bắc Carolina và Virginia, dân chúng bị bất lợi vì thiếu những con đường
và những con kênh cho phép tiếp cận những thị trường ven biển, và họ cũng chịu
khốn khổ vì sự thống trị về chính trị của các chủ đồn điền vùng thủy triều vốn
cũng phải di chuyển về miền Tây. Cho đến năm 1800, các thung lũng sông
Mississippi và Ohio đang trở thành vùng biên giới rộng lớn. "Chào nhé, chúng tôi
ra đi, trôi xuôi dòng trên xứ Ohio", lời hát này đã trở thành bài ca của hàng ngàn
dân di cư.
Dòng dân cư tiến về miền Tây vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn tới sự phân chia
những vùng lãnh thổ cũ, và xác lập những đường biên giới mới. Vì có các bang
mới được kết nạp nên tấm bản đồ chính trị đã ổn định hóa vùng phía đông của
Mississippi. Từ năm 1816 đến năm 1821, 6 bang đã được thành lập: Indiana,
Illinois và Maine (đây là 3 bang tự do) và Mississippi, Alabama và Missouri (các
bang nô lệ). Miền biên giới đầu tiên đã gắn bó chặt chẽ với châu Âu, miền biên
giới thứ hai có quan hệ chặt chẽ với các vùng định cư ven bờ biển, nhưng thung
lũng sông Mississippi là độc lập và dân cư vùng này chăm chú nhìn sang miền Tây
hơn là sang miền Đông.
Cư dân miền biên giới là một nhóm cư dân khác. Một du khách Anh đã mô tả
họ như là một sắc dân táo bạo, liều lĩnh và chịu được gian khổ đang sống trong
những căn lều tồi tàn Họ là những người thô lỗ nhưng hiếu khách, dễ thương đối
với người ngoại quốc, họ trung thực và cả tin. Họ gieo trồng ít ngô của người da
đỏ, bí ngô, nuôi heo và nhiều khi họ có một hay hai con bò Khẩu súng trường là
phương tiện chống đỡ chính yếu của họ. Vốn rất khéo léo, lành nghề với cây rìu,
cái bẫy và chiếc cần câu, những người này đốt dọn những con đường đi, dựng
những căn lều đầu tiên bằng gỗ súc và đối chọi với những bộ lạc da đỏ bản địa có
đất đai bị họ chiếm.
Khi ngày càng có nhiều cư dân nhập cư lọt sâu vào vùng đất hoang dã thì nhiều
người đã trở thành các chủ trại cũng như thợ săn. Một căn nhà tiện nghi bằng gỗ
súc với các cửa sổ lắp kính, một ống khói và các phòng riêng biệt đã thay thế cho
chiếc lều gỗ, giếng nước đã thay thế cho dòng suối. Những người định cư siêng
năng cần cù sẽ nhanh chóng dọn quang những vùng đất mọc đầy cây to bằng việc
đốt gỗ lấy tro làm phân bón và để lại các gốc cây đã đốn mục nát. Họ trồng ngũ
cốc, rau và quả; sắp xếp các cánh rừng để nuôi hươu, gà tây rừng và lấy mật; họ
đánh cá ở những con suối gần nhà; chăm sóc đàn gia súc và heo. Những người đầu
cơ đất đai mua những khoảnh đất rộng, rẻ, và nếu giá đất tăng họ bán những ruộng
đất của họ đi và họ tiếp tục đi xa hơn nữa về miền Tây, mở đường cho những
người khác.
Các thầy thuốc, luật sư, chủ cửa hàng, biên tập viên, nhà truyền giáo, thợ cơ khí
và các nhà chính trị chẳng bao lâu sau đã đi theo các chủ trại. Tuy nhiên, các chủ
trại là một cơ sở vững chắc. Ở những nơi họ định cư, họ có ý định ở lại và hy vọng
con cái họ sẽ ở đó sau khi họ qua đời. Họ xây dựng những kho lúa lớn và những
ngôi nhà gạch hay nhà khung. Họ mua gia súc giống đã cải tạo, cày cấy đất đai và
gieo những loại hạt có năng suất cao. Một số người dựng những xưởng xay bột,
xưởng cưa và lò cất rượu. Họ tạo nên những con đường chính rất bền tốt, họ xây
những ngôi nhà thờ và trường học. Những biến đổi khó có thể tin được đã hoàn tất
chỉ sau vài năm. Vào năm 1830 chẳng hạn, Chicago ở bang Illinois chỉ là một khu
làng buôn bán với một pháo đài không có triển vọng gì; nhưng ngay một thời gian
dài trước khi một số người định cư đầu tiên qua đời thì khu làng đó đã trở thành
một trong số những thành phố rộng lớn nhất và giàu có nhất nước Mỹ.
Thật dễ dàng có thể sở hữu những trang trại. Sau năm 1820, đất của nhà nước
có thể mua được với giá 1,25 đô-la cho một nửa héc -ta và sau Đạo luật Trang trại
ban hành năm 1862 thì đất đó có thể có được chỉ cần bằng chiếm cứ và cải tạo thôi.
Hơn nữa, những công cụ để canh tác đất đai cũng dễ kiếm. Đó là cái thời khi mà,
theo câu nói của John Soule viết ra và được nhà báo Horace Greeley phổ biến,
những người trẻ tuổi có thể tiến về miền Tây và lớn lên cùng đất nước.
Ngoại trừ việc di cư tới vùng Texas do Mexico sở hữu thì biên giới vùng nông
nghiệp phát triển sang phía tây chỉ mãi tới năm 1840 mới qua miền Missouri. Vào
năm 1819, để trả công cho việc đoạt được những quyền khai khẩn của công dân
Mỹ với trị giá 5 triệu đô la, nước Mỹ đã đoạt từ tay Tây ban Nha cả vùng Florida
lẫn quyền của Tây Ban Nha sở hữu khu vực Oregon ở miền Viễn Tây. Đồng thời,
miền Viễn Tây đã trở thành khu vực hoạt động rộng lớn của việc buôn bán lông
thú mà vốn dĩ có giá trị hơn nhiều so với da thú. Cũng như những ngày đầu tiên
của cuộc thám hiểm của người Pháp ở thung lũng Mississippi, lái buôn là người
mở đường cho dân định cư vượt qua sông Mississippi. Những thợ bẫy thú lấy da là
người Pháp và người Xcotlen - Ai-len khi khảo sát những con sông lớn và các
nhánh sông đã phát hiện ra những đoạn đèo trên các dãy núi Rocky và Sierra, từ
đó dẫn tới việc di dân bằng đường bộ vào thập niên 1840 và sau này, mở ra khả
năng khai khẩn vùng nội địa nước Mỹ.
Xét một cách toàn diện thì sự tăng trưởng của đất nước thật to lớn: dân số tăng
từ 7, 25 triệu lên hơn 23 triệu từ năm 1812 đến năm 1852, đất đai sẵn có cho việc
định cư tăng gần bằng diện tích châu Âu - từ 4, 4 triệu lên tới 7, 8 triệu km2. Tuy
nhiên, vấn đề vẫn chưa được giải quyết đó là những cuộc xung đột căn bản giữa
các địa phương mà cho đến những năm 1860 bùng nổ thành nội chiến. Một điều
cũng không thể tránh khỏi là cuộc mở rộng sang miền Tây đã khiến dân nhập cư
xung đột với dân bản địa của miền đất này là người da đỏ.
Vào đầu thế kỷ XIX, nhân vật kiệt xuất nhất gắn bó với những xung đột đó là
Andrew Jackson, người miền Tây đầu tiên chiếm lĩnh Nhà Trắng. Vào giữa cuộc
chiến tranh năm 1812, Jackson khi đó phụ trách lực lượng dân quân Tennesse đã
được phái tới phía nam Alabama, tại đây ông đã đàn áp không thương xót cuộc
khởi nghĩa của dân da đỏ Creek. Sau đó, người Creek đã nhượng hai phần ba đất
đai của họ cho Hoa Kỳ. Sau này Jackson đã đánh tan những băng nhóm người da
đỏ Seminole, khiến họ phải chạy khỏi những vùng trú ẩn của họ ở Florida do
người Tây Ban Nha sở hữu.
Vào những năm 1820, Bộ trưởng Chiến tranh của Tổng thống Monroe, ông
John C. Calhoun, đã theo đuổi chính sách lùa những bộ lạc còn lại ra khỏi miền
Tây Nam cổ kính và tái định cư họ ở bên kia sông Mississippi. Jackson đã tiếp tục
chính sách này với tư cách là tổng thống. Vào năm 1830, Quốc hội đã thông qua
Đạo luật di chuyển người da đỏ, cung cấp tài chính để đưa các bộ lạc miền Đông
qua sông Mississippi. Vào năm 1834, một vùng lãnh thổ đặc biệt của người da đỏ
đã được thiết lập ở khu vực mà bây giờ là bang Oklahoma. Tính tổng cộng thì các
bộ lạc đã ký 94 hợp đồng trong thời gian hai nhiệm kỳ của Jackson để nhượng
quyền sở hữu hàng triệu hécta đất cho Chính phủ Liên bang và di dời hàng chục
bộ lạc ra khỏi vùng đất chôn nhau cắt rốn của tổ tiên họ.
Có lẽ chương bi hùng nhất trong cuốn sử bất hạnh này liên can tới người da đỏ
Cherokees mà đất đai của họ ở vùng phía tây bang Nam Carolina và bang Georgia
đã được bảo đảm bằng hiệp ước từ năm 1791. Vốn là một trong những bộ lạc tiến
bộ nhất trong các bộ lạc miền Đông, số phận người Cherokees đã được quyết định
khi vàng được phát hiện trên đất đai của họ vào năm 1829. Người Cherokees đã bị
bắt buộc phải tiến hành cuộc di chuyển lâu dài và hiểm nghèo tới Oklahoma vào
năm 1835. Nhiều người đã chết vì bệnh tật và tình trạng vất vả, thiếu thốn trên con
đường nổi tiếng mang tên Đoạn trường nước mắt.