LÝ THUYẾT
CHUNG VỀ
NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Định nghĩa ngân hàng thương mại:
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có một cách
định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công
ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vị tài
chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận
tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng
thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì:
ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và
thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức
vay mượn khác…
Ở Việt Nam Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12
năm 1997, định nghĩa: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ
chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo qui định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung
nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Luật Ngân hàng nhà nước định nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
II. Vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại (NHTM):
1. Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế:
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách
triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng
muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt
động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể không tin
tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian
của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn
vay vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh
tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất
kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ
duy trì họat động của mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,…
NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán:
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
2
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo
lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an
toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với
các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn
kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản
lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán ) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể
chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở
các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc
bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng đện tử là
chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ
như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng
thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác
một cách nhanh chóng.
3. Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp:
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không còn họat
động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về
tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ,
nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh tóan trong hệ
thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy tiền
“bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM
đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các
yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng
Tiền gửi
mới
Thanh toán
cho vay mới
Dự trữ bắt buộc
Ngân hàng A
1.000.000
900.000
100.000
Ngân hàng B 900.000
810.000
90.000
Ngân hàng C 810.000
729.000
81.000
Tiền toàn hệ thống ngân hàng 10.000.000
9.000.000
1.000.000
Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số tiền
nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người vay tiền
không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ
dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi trả đem số
tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000.
Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay
vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền
được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
3
như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền
gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000
và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân
hàng 2 cấp.
III. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động cấp tín dụng.
Hoạt động dịch vụ thanh toán.
Hoạt động ngân quỹ.
Các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh
ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm,
nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động
ngân hàng.
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
4
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG TM VN TRONG THỜI GIAN QUA
(2006-2008)
I. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời gian qua:
1- Những thành tựu đạt được:
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 5 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN),
37 NHTMCP, 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 15 công ty tài
chính và 13 công ty cho thuê tài chính và 53 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước
ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ
phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục
năm thì đây quả là một sự trưởng thành vượt bậc.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh
tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Hệ thống
ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong
những năm qua.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban
hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh
và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch hơn.
Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ
chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ; Chức năng cho vay tín dụng chính sách
và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được
tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng
cao; Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và
phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã được hình thành và
phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị
trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng
đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN,
xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong những năm 90
xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại,
nối mạng và thanh toán điện tử…
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh cả về quy mô và
chất lượng. Ngân hàng Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc điều hành chính sách tiền tệ, ổn
định tỷ giá, lãi suất và kiềm chế lạm phát, góp phần làm ổn định kinh tế và tạo điều kiện cho
tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Đặc biệt từ sau khi hội nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã mở rộng rất nhanh và có những đóng góp quan trọng nhất định đối với công cuộc xây
dựng đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia, chăm lo cho đội ngũ doanh nghiệp, góp phần
phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
5
Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, ngành ngân hàng rất chú trọng trong việc đẩy
mạnh các hoạt động liên quan đến thị trường và sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Bên
cạnh các dịch vụ truyền thống, các ngân hàng cũng rất cố gắng trong việc đa dạng hóa các loại
hình sản phẩm để cung cấp cho xã hội. Đây là một xu thế tất yếu khi nền kinh tế Việt Nam
ngày càng hội nhập vào thế giới và các ngân hàng trong nước đang phải đối phó với sức ép
cạnh tranh từ bên ngoài. Trình độ công nghệ cũng có những bước cải thiện giúp hiện đại hoá
các phương tiện thanh toán. Hệ thống máy rút tiền tự động ATM đem đến nhiều tiện ích trong
cuộc sống.
Một trong những thành tựu nổi bật của ngành ngân hàng là đã huy động được hàng nghìn tỉ
đồng để đầu tư vào những chương trình kinh tế trọng điểm có ý nghĩa quan trọng của nền kinh
tế. Nhiều công trình, dự án quan trọng của đất nước được hình thành từ nguồn vốn ngân hàng
(như các dự án về dầu khí, công nghiệp đóng tàu, xi măng, sắt thép, thuỷ điện, ). Đặc biệt,
ngành ngân hàng đã dành nguồn vốn đáng kể để đầu tư phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vốn ngân hàng đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp, nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, tạo việc làm cho hàng triệu lao động.
Ngành ngân hàng cũng thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Vốn ngân hàng đã góp
phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản trở lại kinh doanh có hiệu
quả, đem lại những đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ngành cũng hỗ
trợ tích cực và góp phần đạt được những thành tựu nổi bật trong nhiều hoạt động như xoá đói
giảm nghèo, cho vay chương trình phát triển nhà ở Đồng bằng Sông Cửu Long; cho vay khắc
phục hậu quả thiên tai; cho vay ưu đãi về lãi suất khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng
xa; lập quỹ tín dụng đào tạo cho sinh viên, học sinh vay tiền dài hạn 10-15 năm, lãi suất bằng
50% lãi suất thương mại thông thường (trong thời gian đi học không thu lãi).
Ngành ngân hàng cũng chú trọng việc mở rộng, tăng cường hoạt động đối ngoại và hợp tác
quốc tế với các ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới theo xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế. Duy trì tốt quan hệ với các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế như Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tham gia Hiệp
hội Ngân hàng các nước ASEAN
2- Ngành ngân hàng trong năm 2008 đã trãi qua nhiều biến động khó khăn:
a. Lạm phát:
Đầu năm phải đối mặt với lạm phát tăng cao (theo tính tóan sơ bộ lạm phát năm nay của Việt
Nam là 24%) do đó việc thắt chặt tiền tệ đã gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng. Thứ nhất:
họ phải tăng lãi suất vay vì thế cho nên phải tăng lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay quá cao
khiến càng ít doanh nghiệp vay vốn, làm cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Thứ hai:
Do lãi suất cao nên khả năng hoàn trả của các con nợ bị giảm sút, việc thu hồi nợ khó khăn
hơn, các khoản nợ xấu gia tăng, làm tăng khả năng rủi ro của các ngân hàng. Thứ ba: Do lý do
thứ hai nên các ngân hàng trở nên dè dặt trong việc cho vay vốn, tiền không được mang ra sử
dụng lưu thông trở thành những khoản tiền vô ích, làm tăng chí phí cho ngân hàng.
b. Cơn bão tài chính Mỹ:
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
6
Gần cuối năm, ngành tài chính ngân hàng phải đón nhận tin cơn bão tài chính ở Mỹ. Nhưng có
lẽ nó có ít tác động đến ngành ngân hàng Việt Nam mà nhiều khi còn là tin tốt. Tin tốt là vì:
Khi nhìn thấy sự khủng hoảng của ngành ngân hàng tại Mỹ, các ngân hàng Việt Nam sẽ suy
xét và nhìn nhận lại cách làm ăn của mình. Họ sẽ thận trọng hơn với các khoản cho vay của
mình; họ sẽ tìm cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; họ sẽ đề phòng và miễn dịch với các
dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; họ sẽ tập trung vào các
khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai.
c. Cạnh tranh giữa các ngân hàng:
Đầu tiên là sự cạnh tranh các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Càng ngày
càng có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Lợi thế của họ là có nhiều vốn, có tiềm
lực tài chính và quản lý. HSBC là ngân hàng nước ngoài tích cực nhất hiện nay. HSBC vừa
được Ngân hàng Nhà nước chính thức cho phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập ngân hàng con sẽ cho phép HSBC mở rộng mạng lưới
phân phối rộng hơn, tới các khách hàng hiện tại cũng như khách hàng mới. HSBC trở thành
ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng trong
nước sau khi nâng cổ phần sở hữu tại Techcombank từ 14,4% lên 20%. Điều này cho phép
HSBC mở rộng sức ảnh hưởng và gia tăng tầm hoạt động của mình. Sức ép cạnh tranh ngày
càng gia tăng đối với các ngân hàng nội.
Cạnh tranh với ngân hàng trong nước: Điều này là hiển nhiên nhưng có xu thế mới đó là việc
hợp tác của các ngân hàng nội. Việc rõ ràng nhất là “liên minh ATM”. Cầm thẻ ATM của
ngân hàng Techcombank nhưng khi đến trạm rút tiền của ngân hàng Vietcombank bạn vẫn có
thể rút tiền được. Điều này làm gia tăng tầm hoạt động, khả năng cạnh tranh, sức thu hút
khách hàng hơn là những ngân hàng không nằm trong liên minh.
Nhưng sự cạnh tranh dù là giữa nội – ngoại hay nội – nội vẫn là cần thiết. Vì như thế các ngân
hàng sẽ không ngừng cải thiện, không ngừng gia tăng chất lượng dịch vụ, luôn luôn sáng tạo
để làm thỏa mãn những đòi hỏi của đất nước, của người dân và các doanh nghiệp.
d. Cạnh tranh với thị trường chứng khoán:
Càng ngày chứng khoán càng trở nên lộ diện là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng
về mặt huy động vốn trong dân. Trước kia chưa có chứng khoán thì người dân sẽ gửi tiền nhàn
rỗi của mình vào các ngân hàng nhằm kiếm các khoản lợi tức. Nhưng nay, chứng khoán đã
làm giảm lượng huy động vốn nhàn rỗi của các ngân hàng. Những người dân có tiền nhàn rỗi
họ sẵn sàng lao vào đầu tư chứng khoán với hi vọng kiếm lời cao hơn là gửi tiền vào ngân
hàng (tuy có rủi ro cao hơn). Bên cạnh đó, các doanh ngiệp ngoài kênh huy động vốn là vay
mượn các ngân hàng họ còn có cách là phát hành cổ phiếu ra thị trường. Đấy cũng là một cách
tốt để huy động vốn.
Nói đến khó khăn thì cũng cần nhắc đến những thành tựu hay dấu hiệu khả quan mà ngành
ngân hàng đã làm được trong năm nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng được ghi nhận nêu trên, hệ thống ngân hàng còn
nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục để hội nhập được tốt, có khả năng cạnh tranh
cao trong môi trường quốc tế.
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
7
3- Một số hạn chế, tồn tại và những vấn đề đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay:
Như trên đã nêu, hệ thống ngân hàng có nhiều đổi mới và có những bước tiến nổi bật, nhưng
để hội nhập, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập như:
- Chất lượng dịch vụ của ngân hàng trong nước còn yếu kém: Hệ thống dịch vụ ngân hàng
trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và
nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền
gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng,
chiếm trên 80% tổng thu nhập, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi
giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước vẫn chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của các NHTM nhà nước ở Việt Nam. Việc mở rộng tín
dụng cho khu vực kinh tế NQD đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc.
Hầu hết các chủ trang trại và công ty tư nhân khó tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng và vẫn
phải huy động vốn bằng các hình thức khác. Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc
Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do không thể đa dạng hóa
các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa
vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác
dụng ở mức giới hạn nhất định”.
- Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ
chức tín dụng nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ bản bằng VNĐ đang ở
mức cao trên tổng dư nợ. TS. Lý cũng cho biết thêm, một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng
nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa
vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển
và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất
trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên,
lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho
các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn
tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
- Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên. Mặc dù lãi
suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng, nhưng việc lãi suất
tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều đó tạo thêm gánh nặng về
chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Trong điều kiện
nói trên, một phần không nhỏ số doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và phá sản nếu
không được tiếp tục vay vốn từ ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi
nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
- Các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) còn cần phải bàn
và còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó, khi lãi suất thị trường lên cao trong khi
vốn khả dụng của các NHTM dư thừa, NHNN thiếu khả năng can thiệp để điều tiết mặt bằng
lãi suất.
- Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn dài trên 1 năm
tại các NHTM chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là ngắn hạn dưới 1 năm chiếm tới 70%.
Trong khi đó, tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn hiện đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
8
lên với quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn
huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy
động ngắn hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đối với các nước đang phát triển, kinh tế vĩ mô
chưa thực sự ổn định, độ tin cậy của đồng tiền còn thấp, huy động vốn dài hạn khó khăn…
Chính phủ đều có chính sách cho phép sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn, đồng thời áp dụng một số chính sách hỗ trợ để đảm bảo khả năng thanh toán
của các ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ trên phải có một giới hạn nhất định. Việc sử dụng vốn
ngắn hạn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu
sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại tệ còn chưa cao
như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ
bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà
nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương
đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình
quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của
Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có
thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ
khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân
hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm.
- Phần lớn vốn của các NHTM Việt Nam đều thấp nên khả năng thanh khoản và tính bền vững
của hệ thống chưa được cao, sức ép cạnh tranh còn thấp. Các NHTMCP, quỹ tín dụng quá nhỏ
bé và yếu kém đang là điểm dễ bị tổn thương nhất của hệ thống. Có một số công ty tài chính
và quỹ tài chính được thành lập nhưng mới bắt đầu hoạt động.
- Các ngân hàng chưa mở rộng và thay đổi phương thức kinh doanh; năng lực thẩm định dự án
thấp. Tình trạng này một phần do thị trường tài chính chưa phát triển và các khuôn khổ pháp
luật, kế toán và quản lý không đầy đủ, nhưng chủ yếu là do thiếu sự cạnh tranh, điều kiện tạo
ra rất ít động lực cho các ngân hàng cải thiện chất lượng hoạt động.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tài chính, cho
phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như những ngân hàng trong
nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Hệ thống
ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho
phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh
nghiệp.
- Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung đối với rủi ro
thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lý rủi ro thanh khoản hầu
như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất hiện những biến động bất thường,
một số NHTM luôn phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
- Phần lớn các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội sở chính đối
với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng thái ngoại hối chưa đáp
ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn chế tác động của những rủi ro
này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
9
được phép kinh doanh ngoại hối không chấp hành các giới hạn về trạng thái ngoại tệ, báo cáo
thiếu trung thực, đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỷ giá. Vì vậy,
khi phải đối mặt với sự biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức tín dụng.
Tính từ thời điểm cuối năm 2006, đã có nhiều biến động lớn xảy ra đối với ngành ngân hàng
Việt Nam. Những biến động này bao gồm cả những chuyển biến tích cực trong giai đoạn
chuẩn bị gia nhập và sau gia nhập WTO, cũng như những hoạt động sôi nổi khác nhờ sự phát
triển tốt của nền kinh tế và sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán trong giai
đoạn đó. Tuy nhiên, có nhiều nguy cơ tiềm ẩn trong những hoạt động này. Một số nguy cơ đã
được nhận thấy khi bước sang năm tài khóa 2008 và đang được để tâm khắc phục, nhưng một
số nguy cơ mang tính căn bản khác hoặc chưa được nhìn nhận, hoặc được nhìn nhận nhưng lại
thiếu quyết tâm và khả năng để khắc phục. Một số vấn đề cần nói đến là:
Sự bùng nổ thành lập ngân hàng mới: Chỉ tính từ nửa cuối năm 2006, Ngân hàng Nhà nước
liên tục nhận được hồ sơ xin thành lập mới ngân hàng với con số thống kê đến hết tháng
11/2007 là 20 bộ. Con số này tiếp tục tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008 và sau đó giảm dần
do chính sách siết chặt quản lý của Chính phủ. Hiện tượng bùng nổ thành lập ngân hàng mới
do một số nguyên nhân như tâm lý đón đầu cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO, hay do sự cởi
mở của Nhà nước sau một thời gian dài quản lý chặt chẽ. Tốc độ phát triển của con số các
ngân hàng mới cũng đồng nghĩa với việc đem lại những xáo trộn trong ngành ngân hàng và sự
nảy sinh những lo ngại về năng lực quản lý và cạnh tranh của các ngân hàng mới.
Tăng trưởng tín dụng nóng rồi sau đó siết chặt tín dụng: Có thể nói, mức độ tăng trưởng tín
dụng trong nửa cuối năm 2007 và vài tháng đầu năm 2008 được xem là “nóng”. Điều đó cũng
dẫn đến tình trạng “nóng” trong các hoạt động đầu tư của xã hội và là một trong những nhân tố
thúc đẩy lạm phát, bên cạnh những yếu tố khách quan khác. Việc tăng trưởng tín dụng ồ ạt
cũng đã nâng nợ xấu tại một số ngân hàng lên một cách rõ rệt, đặc biệt là ở lĩnh vực cho vay
đầu tư với thị trường bất động sản. Tuy vậy, trong những tháng sau đó, Nhà nước đã thực thi
một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát cùng một loạt các quyết định quản lý hành chính
nên tăng trưởng tín dụng đã giảm đi.
Được bảo hộ: Hiện nay ngành ngân hàng đang được bảo hộ khá nhiều. Tuy nhiên, cần phải
nhìn nhận một thực tế là, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, sức ép cạnh tranh đến từ các
ngân hàng nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Do vậy, phải chuẩn bị đối mặt với sự cạnh
tranh khi bị giảm bảo hộ là việc cần thiết đối với các ngân hàng trong nước hiện nay.
Hơn nữa, phần lớn các NHTM thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả, bền vững. Hoạt động
kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế
toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Đội ngũ lao động của các NHTM Việt Nam khá đông nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ
chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ nhiều NHTM
còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở
các nước trong nhiều năm qua. Hiện tượng nhân viên làm việc đủng đỉnh trong khi khách hàng
đang chờ đợi là hiện tượng còn khá phổ biến tại một số ngân hàng trong nước. Còn có những
ngân hàng yêu cầu khách hàng phải đến rút tiền đúng nơi gửi, vì thông tin của khách hàng
chưa được “post” lên mạng của ngân hàng. Những hạn chế tương tự như vậy gay nhiều phiền
toái cũng như cảm giác không hài lòng cho khách hàng.
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
10
Công nghệ lỗi thời: Mặc dù gần đây các ngân hàng trong nước đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa
hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của những đầu tư không đồng
đều. Đặc biệt, tại các ngân hàng thương mại nhà nước, việc đầu tư thường được chú trọng
nhiều vào “bề nổi” là các hệ thống thông tin, nhưng lại không tiếp cận được vấn đề cốt lõi là
tạo lập cơ sở nguyên tắc nghiệp vụ và quản trị để tận dụng tối đa những tiện ích do các hệ
thống công nghệ thông tin mang lại.
- Khả năng quản lý rủi ro còn yếu kém: Có thể nói, cho đến thời điểm này, đây là một đặc
điểm nổi bật của nhiều ngân hàng Việt Nam. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều
có lịch sử phát triển chỉ khoảng 20 năm (khoảng thời gian quá non trẻ so với con số 158 năm
tuổi của Lehman Brothers- ngân hàng Mỹ vừa bị phá sản). Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế
thế giới của kinh tế Việt Nam cũng chỉ chừng ấy năm. Hệ thống pháp luật về phòng ngừa rủi
ro và nghiệp vụ quản trị rủi ro trong ngành tài chính vẫn còn lỏng lẻo và yếu. Nhiều ngân hàng
vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề quản lý rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.
Ảo tưởng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế và thị trường bất động sản: Ở Mỹ, phần lớn
những gì ngành tài chính Mỹ đang phải trải qua lúc này đều xuất phát từ khủng hoảng của thị
trường bất động sản và từ đó lan ra các lĩnh vực khác. Trước năm 2007, ở Việt Nam cũng đã
có những dấu hiệu tương tự. Những nỗ lực của Chính phủ trong việc thắt chặt chính sách tiền
tệ và một loạt các biện pháp khác đã giúp ngành ngân hàng không rơi vào vùng mất an toàn
trong việc cho vay đầu tư bất động sản. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi rủi ro đều
đã được loại bỏ. Hiện nay, đã có một số dấu hiệu cho thấy ngành ngân hàng bắt đầu hoạt động
“thoáng” hơn. Do vậy, bảo đảm sự giám sát chặt chẽ nhằm lành mạnh hóa các nguồn vốn đổ
vào lĩnh vực bất động sản là việc vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng Việt Nam hiện
nay.
Trên thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay có nguyên nhân từ cuộc khủng hoảng
cho vay dưới chuẩn (bắt đầu bằng sự cố “nổ bong bóng bất động sản”. Một trong các hệ quả
của việc này là kéo theo sự mất giá trị của các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp, càng làm
cho thị trường tài chính thiếu vốn trầm trọng.
Đối với Việt Nam, hiện tượng “thổi phồng” giả tạo do những kẻ đầu cơ là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản”. Nếu thị trường bất động sản
vỡ sẽ ảnh hưởng đến các hệ thống dịch vụ khác, trong đó có ngành ngân hàng. Vì vậy, yêu cầu
có một cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường bất
động sản và ngành ngân hàng trở nên một yêu cầu cấp thiết.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng là một yếu tố gây bất lợi. Ở Mỹ, trong một thời gian dài tồn tại
một tâm lý chung là quá tin tưởng vào độ an toàn của các ngân hàng lớn. Cả khách hàng Mỹ
cũng như giới ngân hàng đều tin tưởng rằng, các ngân hàng lớn, có “tuổi đời” cao luôn được
kiểm soát một cách chặt chẽ và luôn có sự bảo trợ của nhà nước. Tuy nhiên, thực tế đã chứng
minh rằng, những ngân hàng lớn mặc dù có những bộ phận chuyên trách cho công tác quản lý
rủi ro nhưng do tính chất phức tạp của công việc nên vẫn tồn tại những lỗ hổng lớn. Sự tin
tưởng này nhiều khi tạo nên cảm giác an toàn giả tạo cho mọi thành viên, kế cả những thành
viên cấp cao nhất. Mặt khác, sự bảo trợ của nhà nước chỉ có thể thực hiện được nếu quy mô
của khủng hoảng còn nằm trong tầm kiểm soát và nếu nhà nước có khả năng tài chính đủ
mạnh.
Tâm lý an toàn giả tạo cũng đang tồn tại tại Việt Nam. Đây là một điều nguy hiểm vì tại những
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
11
thị trường mới nổi như Việt Nam thì năng lực giám sát và khả năng xử lý sự cố còn rất nhiều
hạn chế, chưa nói đến khả năng tài chính của chúng ta cũng rất hạn hẹp. Tâm lý của cộng đồng
cũng chưa được thử thách. Do vậy, nếu có sự cố xảy ra với chỉ một trong bốn ngân hàng
thương mại lớn của chúng ta hiện nay thì khả năng xảy ra khủng hoảng dây chuyền là rất lớn.
Các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng sẽ khó khăn hơn: Một đặc trưng của ngành ngân
hàng hiện đại là tính liên thông cao, do vậy, từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, sẽ có thêm
nhiều khó khăn đặt ra cho các ngân hàng trong nước do tính liên thông giữa các ngân hàng.
Những khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính và sự đổ vỡ của hàng loạt các ngân hàng hàng
đầu tại Mỹ chắc chắn sẽ là bài học cho các ngân hàng của Việt Nam. Hiện nay, các ngân hàng
Việt Nam đều chưa có khả năng cạnh tranh giành thị trường quốc tế nên ảnh hưởng của những
gì đang xảy ra tại Mỹ đối với ngân hàng nước ta phần lớn mới chỉ là là những tác động gián
tiếp. Sắp tới, các ngân hàng quốc tế sẽ cơ cấu lại cách thức giao dịch với những ngân hàng
khác theo xu hướng thắt chặt các yêu cầu an toàn, vì vậy, các khoản vay trên thị trường liên
ngân hàng sẽ trở nên khó khăn hơn; chi phí cho các giao dịch liên ngân hàng cũng sẽ tăng cao.
Hiện tại, trong thị trường liên ngân hàng, một số công ty và ngân hàng của Việt Nam đã phải
vay của ngân hàng nước ngoài với lãi suất cao hơn trước.
Trên cơ sở phân tích năng lực và xu thế cạnh tranh của các ngân hàng tại Việt Nam,
những thách thức cụ thể của NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập là:
Thứ nhất, việc loại bỏ dần các hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài có nghĩa là các ngân
hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại nước ta. Điều
này có nghĩa là sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành Ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt
Nam phải tăng thêm vốn, đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ
thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Ngoài ra, các ngân hàng Việt Nam còn gặp phải một số khó khăn về mặt pháp lý, hệ thống
pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán, còn
nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng. Vì vậy có hạn chế nhất định đối
với sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển thị trường tiền tệ. Luật hoạt động của
các tổ chức tín dụng hiện hành còn có một số điểm chưa phù hợp với nội dung của GATS và
Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Khoảng 2-3 năm sau khi VN gia nhập WTO các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều hoạt động
phong phú đa dạng tại VN và đuợc đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ quốc của
WTO. Khi đó, NHTMNN và NHTMCP sẽ gặp phải những đối thủ nặng ký (thương hiệu, vốn,
công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm, sản phẩm…) ngay trên thị trường VN. Vì vậy, để NHTM
VN có thể đứng vững trong xu thế hội nhập, thực hiện các cam kết trong thỏa thuận khung về
dịch vụ trong khối ASEAN, các cam kết trong Hiệp định thương mại song phương VN-Hoa
Kỳ (BTA), và những nghĩa vụ khi VN gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO (có khả
năng vào cuối năm 2006). Hoạt động tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực được
cam kết mở cửa mạnh mẽ nhất trong thời gian tới. Vậy ngay từ bây giờ (mặc dù đã hơi muộn)
các NHTM VN phải làm gì? Chính phủ cần có những chiến lược và giải pháp cụ thể nào? Việc
khảo sát ý kiến khách quan của hơn 100 cán bộ công chức ngành tài chính ngân hàng theo mô
hình SWOT đã ghi nhận được những đánh giá về điểm mạnh (Strengths) điểm yếu
(Weaknesses), cơ hội (Opportunities), thách thức (Threats) của hệ thống NHTM VN như sau:
ĐIỂM MẠNH (Strengths)
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
12
Nội dung Tỷ lệ
(%)
1 Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp. 100
2 Am hiểu về thị trường trong nước. 100
3 Đội ngũ khách hàng của NHTM VN khá đông đảo. 100
4 Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ. 100
5 Đội ngũ nhân viên tận tụy, ham học hỏi và có kh
ả năng tiếp cận nhanh các kiến thức,
kỹ thuật hiện đại.
75
6 Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt từ phía NH Trung ương. 80
7 Môi trường pháp lý thuận lợi. 60
8 Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hóa ngân hàng. 60
ĐIỂM YẾU (Weaknesses)
Nội dung Tỷ lệ
(%)
1 Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu c
ầu của NHTM hiện đại,
bộ máy quản lý cồng kềnh, không hiệu quả.
90
2 Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém. 90
3 Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa th
ỏa đáng, dễ dẫn đến
chảy máu chất xám.
90
4 Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và kh
ả năng sinh lời của phần lớn các NHTM VN đều
thua kém các ngân hàng trong khu vực.
70
5 Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng và chưa đáp ứng nhu cầu toàn diện của khách hàng.
80
6 Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau. 50
7 Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. 80
8 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đ
ồng bộ nhất
quán.
80
9 Quy mô vốn hoạt động còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh m
ột
cách hoàn chỉnh.
90
10 Việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của các NHTM VN chưa đồng đều nên s
ự
phối kết hợp trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ chưa thuận lợi, chưa tạo đư
ợc
nhiều tiện ích cho khách hàng như kết nối sử dụng thẻ giữa các ngân hàng.
80
CƠ HỘI (Opportunities) chuẩn bị gia nhập WTO, chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế
Nội dung T
ỷ lệ
(%)
1 Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào t
ạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so
sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nư
ớc
ngoài. Từ đó, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
80
2 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và c
ải cách hệ
thống ngân hàng VN, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân h
àng,
95
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
13
tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp lu
ật trong
hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và th
ực hiện cam kết với hội nhập quốc
tế.
3 Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM VN học hỏi đư
ợc nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nư
ớc sẽ phải
nâng cao trình độ quản lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cư
ờng độ tin cậy đối với
khách hàng.
90
4 Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân hàng VN, thị trư
ờng
tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều kiện cho các ngân hàng phát tri
ển các loại
hình dịch vụ mới…
100
5 Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng VN từng bư
ớc mở rộng hoạt
động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM VN trong các giao dịch tài chính quốc tế.
60
6 Mở ra cơ hội trao đ
ổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt động kinh doanh
tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ng
ừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín
và v
ị thế của hệ thống NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp
cận với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn vốn cũng nh
ư
doanh thu hoạt động.
70
7 Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia t
ất cả các dịch
vụ ngân hàng tại VN buộc các NHTM VN phải chuyên môn hoá sâu hơn v
ề nghiệp vụ
ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài s
ản có, quản trị rủi ro, cải
thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân h
àng và
phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp d
ụng
ở VN.
80
THÁCH THỨC (Threats)
Nội dung Tỷ lệ
(%)
1 Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng số lư
ợng
các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý l
àm cho áp
lực cạnh tranh tăng dần.
95
2 Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù h
ợp để có thể cạnh tranh với các ngân
hàng nước ngoài.
80
3 Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nh
ất
quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng.
100
4 Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM VN còn thấp h
ơn các ngân hàng trong khu
vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.
65
5 Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng VN cũng ch
ịu tác động mạnh của thị
trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi su
ất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực
hiện đồng thời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế.
65
6 Các ngân hàng thương mại VN đầu tư quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, tron
g
khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thu
ộc các
ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng r
ất lớn đối với các
NHTM.
75
7 Hội nhập kinh tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ th
ống ngân
85
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
14
hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn rất s
ơ
khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
8 Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát tri
ển mạnh mẽ về chiều rộng (cả ở khu vực
quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên m
ột
mô hình tổ chức khoa học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn
ở mức kém xa
so với khu vực.
80
9 Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn b
ất cập so với nhu cầu của nghiệp vụ
mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng l
àm
cho khoảng cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của VN còn khá xa so v
ới khu vực.
Nền văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra khỏi một nền kinh tế tiền mặt.
85
10 Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy đ
ộng nhiều nguồn vốn mới từ
nước ngoài nhưng đ
ồng thời cũng mang đến một thách thức không nhỏ cho các NHTM
VN là làm như thế nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi
đó, NHTM VN thua kém các
Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất lượng dịch vụ ch
ưa
cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng hơn trước.
95
11 Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà đ
ến từ chính những
nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là ngu
ồn
nhân lực và các cơ chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hi
ện nay. Chảy máu chất
xám là v
ấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM VN cần có các chính
sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.
100
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
15
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỐI VỚI NHTM
VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
I. Các nhóm giải pháp từ Chính phủ:
Thứ nhất, cải cách DNNN, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp. Việc bảo hộ cho
khu vực DNNN là nguyên nhân chính khiến mức nợ khó đòi, nợ quá hạn tại các NHTM nhà
nước cao. Vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy mạnh tiến trình cải cách DNNN thì việc cải thiện
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các NHTM nói riêng là khó thực hiện.
Thứ hai, nâng cấp và bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhanh chóng ban hành Luật
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm soát
cạnh tranh.
Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính trên cơ sở
xoá bỏ dần các giới hạn về số lượng, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn của
các bên nước ngoài, các loại hình dịch vụ, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ
chức tài chính theo các cam kết song phương và đa phương, công khai các công trình trọng
điểm quốc gia cần vay vốn ngân hàng để các ngân hàng thương mại cổ phần có cơ hội tham
gia. Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu
(trong đó có cải cách tài chính bên trong) và tự do hoá thương mại. Việc có được lộ trình hội
nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh
tranh mà không bị vướng vào các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.
Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt động của
thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng.Về
hoàn thiện cơ sở pháp lý, việc sửa đổi Luật ngân hàng sắp tới cần hạn chế tối đa việc cấp giấy
phép con mà theo hướng đưa ra các điều kiện để ngân hàng nào có đủ điều kiện thì được thực
hiện không phải xin phép qua nhiều cấp làm mất thời gian, lỡ cơ hội kinh doanh của các ngân
hàng
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo các đề án đã được Chính phủ phê
duyệt và phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm tạo ra các ngân hàng có quy mô lớn, hoạt
động an toàn, hiệu quả và đủ sức cạnh tranh.
II. Các nhóm giải pháp về phía Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Thứ nhất, năng cao năng lực quản lý kiểm tra giám sát điều hành của Nhà nước. Từng bước
đổi mới cơ cấu tổ chức, quy định lại chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước nhằm năng
cao hiệu quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Thực tế cho thấy, sự thiếu minh bạch và thiếu giám sát chặt chẽ là những nguyên nhân chính
dẫn đến tình trạng “bong bóng bất động sản” hay những thông tin thất thiệt trên thị trường
chứng khoán nói riêng, thị trường tài chính nói chung. Những hoạt động của thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản lại là những yếu tố cơ bản dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ
hay nguy cơ khủng hoảng tài chính của một nền kinh tế. Vì vậy, khả năng giám sát thị trường
và sự quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng hàng đầu trong vấn đề này. Những ngân hàng
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
16
lớn của Mỹ như Lehman Brothers hay các công ty bất động sản như Fannie Mae, Freddie Mac
đổ vỡ là do dấn quá sâu vào những nghiệp vụ mang tính rủi ro quá cao như cho vay thế chấp
dưới chuẩn, và quá tin tưởng vào tính bền vững của tổ chức mà thiếu đi sự giám sát chặt chẽ.
Hiện nay, ở nước ta, chưa có cơ quan quản lý dịch vụ tài chính một cách độc lập, Ngân hàng
Nhà nước vẫn phải làm công việc này. Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên có một bộ phận
chuyên trách thông tin để chủ động cung cấp những nguồn tin chính thức và trung thực cho
công chúng. Việc giám sát cũng còn nhiều hạn chế, mặt khác, pháp luật về ngân hàng của Việt
Nam vẫn chưa hoàn thiện, do vậy, sự tự giác, tự giám sát của bản thân các ngân hàng càng trở
nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay.
Thứ hai, phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị trường vốn,
tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các NHTM đang phải gánh vác.
Thứ ba, NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ phần hóa các
NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh được thực hiện
căn cứ vào quy mô vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại đang có xu hướng xây dựng mô
hình hoạt động theo các mảng hoạt động nghiệp vụ, đề nghị Ngân hàng Nhà nước có cơ chế để
tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại được thành lập những chi nhánh theo loại hình
nghiệp vụ (bán buôn, bán lẻ, khách hàng doanh nghiệp…), các ngân hàng tự lựa chọn cơ cấu
thích hợp với khả năng vốn khả năng nhân sự và khả năng kiểm soát rủi ro.
Để công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước được tập trung và tiết giảm chi phí về bộ máy
của các tổ chức tín dụng, đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế báo cáo
thống kê theo hướng: hội sở hoặc chi nhánh trung tâm của ngân hàng thương mại tại từng địa
phương sẽ chịu trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo trực tiếp cho Ngân hàng Nhà nước.
Thứ tư, một số quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính về các công cụ
tiền tệ (trái phiếu, tín phiếu) chưa thống nhất, đề nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu để
phối hợp với Bộ, ngành liên quan có các điều chỉnh cho phù hợp, thống nhất.
Thứ năm, một số ngân hàng đang gặp khó khăn trong triển khai thực hiện ngân hàng điện tử,
đề nghị Ngân hàng Nhà nước xây dựng một dự án đầu tư làm điểm, từ đó chuyển giao công
nghệ để các ngân hàng khác học tập.
Về dịch vụ thẻ, đề nghị Ngân hàng Nhà nước kết hợp chặt chẽ với Hiệp hội ngân hàng để cùng
các ngân hàng hội viên nhất là Hội thẻ thúc đẩy sớm việc kết nối thanh toán thẻ.
Về hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, vừa qua một số ngân hàng được thụ hưởng một số dự án
hiện đại hoá do WB tài trợ, các ngân hàng khác rất mong muốn có sự chuyển giao công nghệ
giữa các ngân hàng, nhất là những sản phẩm về quản lý như mô hình tổ chức, sổ tay tín dụng,
quản lý rủi ro để các ngân hàng khác học tập.
Thứ sáu, hiện nay, trong nền kinh tế đang tồn tại khá nhiều hệ thống thanh toán như hệ thống
thanh toán của Ngân hàng Nhà nước, hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước, hệ thống
thanh toán của ngân hàng phát triển, hệ thống thanh toán của trung tâm lưu ký chứng khoán
các hệ thống thanh toán này chưa có sự kết nối với nhau. Để đảm bảo an toàn, thúc đẩy hoạt
động thanh toán trong nền kinh tế quốc dân phát triển và tiết kiệm chi phí cho xã hội, các hệ
thống thanh toán phải được kết nối với nhau, trong đó hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà
nước là trung tâm.
Thứ bảy, nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại hiện nay còn thiếu hụt do có hiện
tượng “co kéo” cán bộ của nhau khi các ngân hàng mở rộng mạng lưới. Mặt khác, nguồn nhân
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
17
lực đang có xu hướng luân chuyển từ các ngân hàng thương mại nhà nước sang các ngân hàng
thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài. Sắp tới sẽ có thêm nhiều ngân hàng và các
chi nhánh mới được thành lập (nhất là các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh của ngân hàng
thương mại cổ phần), vì vậy các ngân hàng ngoài chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cần có
chiến lược giữ nguồn nhân lực trong đó phải chú trọng vấn đề đãi ngộ. Ngân hàng Nhà nước
cũng cần có chiến lược cụ thể thì mới giữ được nguồn nhân lực chất xám cao của mình.
Thứ tám, một số ngân hàng thương mại chưa chấp hành tốt quy định về lãi suất do Hiệp hội
ngân hàng đưa ra. Để tăng tính hiệu quả trong kiểm soát lãi suất, Hiệp hội không nên quy định
mức lãi suất một cách cứng nhắc, mà cần thay đổi sao cho phù hợp và nên có biện pháp xử lý
đối với những đơn vị thực hiện không nghiêm chỉnh, có mức thưởng đối với những đơn vị
thực hiện nghiêm túc.
III. Giải pháp trong nội bộ các ngân hàng
1. Cần một cơ chế giám sát rủi ro:
Ngân hàng là một trong những ngành nhiều rủi ro, vì vậy, cần có một cơ chế giám sát rủi ro,
xây dựng các quy chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi
ro, quản trị tài sản nợ/có, quản trị vốn, kiểm tra, kiểm toán nội bộ; xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn
mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Các sản phẩm của thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất sơ khai, nhưng trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm bày sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất nhanh.
Vì vậy, Nhà nước cần có một cơ chế giám sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường này, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của ngành ngân hàng. Trên thực tế, hệ thống quản
lý rủi ro của các ngân hàng trong nước chưa được chú ý một cách thích hợp, đặc biệt tại các
ngân hàng mới thành lập, do áp lực của lợi nhuận và doanh số. Tình hình khả quan hơn đối với
các ngân hàng lớn và có kinh nghiệm hoạt động lâu năm.
Tuy nhiên, trong số đó cũng có ngân hàng lớn như Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Vietinbank), số lượng nhân viên làm công việc giám sát rủi ro chỉ chiếm khoảng 2%. Hiện
nay, do việc kinh doanh của phần lớn các ngân hàng trong nước vẫn chủ yếu dựa vào các loại
hình dịch vụ truyền thống nên chưa có vấn đề gì lớn xảy ra, ngoại trừ một số nợ xấu tập trung
ở lĩnh vực bất động sản và một số lĩnh vực khác. Song tình hình có thể thay đổi rất nhanh
trong tương lai khi các ngân hàng Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thế giới.
2. Nâng cao năng lực tài chính:
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn là thấp
so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, các ngân hàng nên thực
hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm
lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro, đa dạng hoá
các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các
ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay
ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá
nhân trong nền kinh tế.
Đối với các NHTM nhà nước, cần phải thực hiện lộ trình cổ phần hoá theo đúng kế hoạch đã
được Chính phủ phê duyệt nhằm lành mạnh và minh bạch hoá tài chính, cần áp dụng các biện
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
18
pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung
vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất, phát hành bổ
sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và
không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
3. Hiện đại hoá công nghệ, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao
tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin dữ
liệu quản lý cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, phục vụ công tác điều hành kinh doanh, kiểm
soát hoạt động ngân hàng, quản lý nguồn vốn, tài sản, quản trị rủi ro, quản lý công nợ và công
tác kế toán; hoàn thiện hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống điện tử và giám sát từ xa.
Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Theo
TS. Đinh Xuân Hạng, Học viện Tài chính, các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư
để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính
toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân
hàng.
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là
yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại với chức năng hoạt
động trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia tăng cho khách hàng trong quá trình
giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là
những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên,
công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế
nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác công nghệ
hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn
sản phẩm và tăng cường bán chéo (Cross - selling) cho khách hàng. Đồng thời, việc phát triển
đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình
hoạt động, chăm lo cho website của mình.
NHTM phải biết phát huy vai trò tích cực của các phương tiện thông tin đại chúng. Thực tế
vừa qua cho thấy, ảnh hưởng của tin đồn và sự mất niềm tin rất lớn, vì vậy, khi có những biến
động trên thị trường tài chính, các phương tiện truyền thông đại chúng phải là nơi cung cấp
những nguồn tin trung thực, chính xác và kịp thời, tránh tình trạng người dân và các nhà đầu
tư không biết dựa vào thông tin nào là “chuẩn” nên nghe ngóng và tin theo những tin đồn thất
thiệt. Trong một số trường hợp, sự thiếu trung thực của một số phương tiện thông tin đại
chúng đã khiến người dân mất niềm tin, dẫn đến tình trạng sau đó họ hành động ngược lại với
những nguồn tin này. Việc này đặc biệt quan trọng khi có những biến động xảy đến với ngành
ngân hàng. Cần phải tránh xảy ra tình trạng khách hàng nghe tin đồn và kéo nhau đến rút tiền
hàng loạt, khi ấy, sự đổ vỡ của ngân hàng là khó tránh khỏi, nếu không có những “phao cứu
trợ” đủ mạnh.
Xuất phát từ thực tế này, cần sớm có một chế tài mạnh, vừa bảo đảm thông tin đầy đủ, trung
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
19
thực và kịp thời, vừa tránh được tình trạng “đầu cơ thông tin” để trục lợi, “thông tin nội
gián” , làm người dân khó phân biệt giữa thông tin rò rỉ, nội gián với những thông tin “vỉa
hè” thất thiệt, nhất là trong thời kỳ thị trường vốn, thị trường chứng khoán đang ngày càng
phát triển và trở thành kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế nước nhà.
4. Xây dựng chiến lược khách hàng và phát triển mạng lưới:
- Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau,
phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá
cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với
những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt
động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có
hiệu quả rõ ràng.
- Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự
khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây dựng một hệ thống
thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng.
Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động của tổ chức tín dụng, tạo môi
trường kinh doanh thông thoáng cho hoạt động của tổ chức tín dụng; hoàn thiện các quy định
về an toàn trong hoạt động ngân hàng, ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu về
hệ thống quản lý rủi ro tại tổ chức tín dụng. Để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung
cấp linh hoạt sản phẩm của ngân hàng, cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm
tạo thuận lợi cho khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện
cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
- Sửa đổi, bổ sung hệ thống kế toán ngân hàng cùng với các quy định về phân loại nợ, xử lý rủi
ro trong hoạt động ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, bảo đảm việc đánh giá đúng
chất lượng hoạt động và thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
- Ban hành các quy định về kiểm soát rủi ro hệ thống, giám sát rủi ro trong hoạt động ngân
hàng, có khả năng cảnh báo sớm đối với các tổ chức tín dụng, đặc biệt đối với thị trường ngoại
hối và hệ thống thanh toán quốc gia.
- Củng cố hệ thống thanh tra, kiểm tra của NHNN; bảo đảm để mọi tổ chức, cá nhân tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật về tín dụng; đồng thời có biện pháp cụ thể kiểm soát tăng
trưởng tài sản có rủi ro của các NHTM, ngăn chặn xu hướng gia tăng nợ xấu.
- Thực hiện kiểm toán các NHTM theo chuẩn mực quốc tế, thuê kiểm toán nước ngoài kiểm
toán đối với hoạt động ngân hàng.
5. Nâng cao năng lực quản trị điều hành:
- Cần thực hiện việc quản lý điều hành kinh doanh của tổ chức tín dụng theo hướng tập trung,
thống nhất tại Hội sở chính. Trên cơ sở đó, hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
hàng truyền thống, chủ động mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng mới trên nền tảng công nghệ
hiện đại, phù hợp với nhu cầu thị trường, năng lực quản lý của tổ chức tín dụng và quy định
của pháp luật.
Hồ Thị Vân Anh-Lớp Ngân hàng 4 Ngày 1-K17
20
- Tiếp tục rà soát, bổ sung, chỉnh sửa hệ thống quy chế, quy trình nội bộ như các yêu cầu tối
thiểu về vốn, quản lý rủi ro, xây dựng sổ tay tín dụng, quy trình đánh giá xếp hạng khách hàng
vay, tổ chức theo dõi và thực hiện việc đánh giá chất lượng tín dụng và các khoản nợ xấu; đề
cao vai trò trách nhiệm và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của các
tổ chức tín dụng.
- Từng tổ chức tín dụng cần chủ động coi trọng dịch vụ huy động vốn, tăng cường nguồn vốn
trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các hoạt động kinh doanh; gắn tăng trưởng
tín dụng với việc đảm bảo hiệu quả vốn vay. Tiếp tục đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu theo hướng
giảm nợ xấu đi đôi với việc xây dựng cơ chế kiểm soát, giám sát chất lượng tín dụng. Từng
bước thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế.
Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của ngân hàng là thực hiện quản
trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị
rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra,
thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên.
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời, xây dựng
chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ yếu của NHTM,
thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
6. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng:
Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Hơn
nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ
trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát
và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ
mới.