Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

i: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.96 KB, 12 trang )

Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 0 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1


Bộ giáo dục và đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Ngân hàng





TIỂU LUẬN NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI





Đề tài:
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM












Giảng viên hướng dẫn: TS. Lại Tiến Dĩnh
Học viên thực hiện: Nguyễn Đức Trung
Lớp: Cao học – Ngân hàng – Ngày 1
Khóa: 17











TP. Hồ Chí Minh, năm 2008


Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 1 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Định nghĩa Ngân hàng Thương Mại.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ hai thông
qua ngày 12 tháng 12 năm 1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1998
định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ

ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ
hai thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10
năm 1998 định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Dù có nhiều định nghĩa về ngân hàng thương mại nhưng nó phải chứa đựng 3
nội dung cơ bản là: ngân hàng thương mại phải có hoạt động huy động vốn, hoạt động
cho vay và hoạt động thanh toán.
1.2.Chức năng Ngân hàng Thương mại.
Nhìn chung, ngân hàng thương mại có ba chức năng cơ bản là: chức năng trung
gian tài chính, chức năng tạo tiền và chức năng sản xuất.
1.2.1. Chức năng trung gian tài chính.
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài
chính ở đây bao gồm trung gian về tín dụng, trung gian về thanh toán và trung gian
nhiều lĩnh vực tài chính khác.
Trung gian về tín dụng nghĩa là ngân hàng thương mại huy động và tập trung
các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để cho các chủ
thể khác vay. Như vậy ngân hàng thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho
vay.
Trung gian về thanh toán nghĩa là ngân hàng thương mại làm trung gian giữa
người trả tiền và người nhận tiền bằng cách tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng
như: sec, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ thanh toán, … và độc quyền quản lý các
công cụ đó.
1.2.2. Chức năng tạo tiền.
Ngoài chức năng trung tài chính, ngân hàng thương mại còn có chức năng tạo
tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ (tiền ghi sổ) góp phần gia tăng khối tiền tệ
phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế. Theo Quỹ tiền tệ quốc

tế(International Monetary Fund) gọi tắt là IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm:
Tiền giấy, tiền kim loại, và tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Còn tiền gửi tiết kiệm
và tiền gửi định kỳ không được xem là bộ phận của khối tiền tệ mà chỉ được xem là
“chuẩn tiền”, vì tính chất kém thanh khoản của bộ phận này. Nhưng từ thập niên 1980
trở đi nhiều nhà kinh tế học bắt đầu xem “chuẩn tiền” là một thành phần của khối tiền
tệ. Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới (World Bank) gần như chấp nhận quan
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 2 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
điểm này nhưng còn ngần ngại nên phân biệt thành nhiều dạng khối tiền tệ như: M1,
M2, M3 và L, trong đó:
M1= tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với tiền gửi
không kỳ hạn;
M2 = M1 + tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ tại ngân hàng;
M3 = M2 + tất cả các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác;
L = M3 + các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác của thị trường tiền
tệ.
Tiền được ngân hàng thương mại tạo ra theo cấp số nhân và được xác định bằng
công thức sau:





Trong đó:
U1: số tiền gửi ban đầu tại ngân hàng
q: là công bội cấp số nhân,q = 1 – tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Ví dụ: một khách hàng gửi tiền vào ngân hàng:$1000. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là
20%.
Tổng số tiền bút tệ được tạo ra là:
Sn = 1000 =$5000

1-0.8
Như vậy, với số tiền gửi ban đầu là $1000, ngân hàng thương mại có thể tạo ra
số tiền gửi không kỳ hạn gấp 5 lần nếu dự trữ là 20%.
1.2.3. Chức năng “sản xuất”.
Chức năng trung gian tài chính và chức năng tạo tiền là hai chức năng cơ bản
của ngân hàng thương mại. Trong những năm gần đây, nhiều nhà quản trị ngân hàng
còn đề cập đến chức năng “sản xuất” của ngân hàng thương mại.“Sản xuất” ở đây bao
gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra “sản phẩm” và dịch vụ ngân
hàng cung cấp cho nền kinh tế. Sản xuất ở đây cũng đặc biệt bởi vì nguyên vật liệu đầu
vào là tiền và sản phẩm đầu ra cũng là tiền.Tuy nhiên, chữ sản xuất ở đây nên hiểu
theo nghĩa trong ngoặc kép vì có thể còn nhiều tranh cãi chưa thống nhất.
1.3. Phân loại ngân hàng thương mại.
1.3.1. Phân loại dựa vào hình thức sở hữu.
Dựa theo tiêu thức này, có thể phân loại ngân hàng thương mại thành các loại
ngân sau:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh;
- Ngân hàng thương mại cổ phần;
- Ngân hàng thương mại liên doanh;
- Ngân hàng thương mại 100% vốn của nước ngoài;
- Chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài.
1.3.2. Phân loại dựa vào chiến lược kinh doanh.
Dựa theo tiêu thức chiến lược kinh doanh và mối quan hệ giữa ngân hàng với
khách hàng, có thể chia ngân hàng thương mại thành các loại sau:
- Ngân hàng bán buôn;
- Ngân hàng bán lẻ;
- Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ.

Sn= U1
1-q
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH: Nguyễn Đức Trung 3 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
1.3.3. Phân loại dựa vào quan hệ tổ chức.
Dựa theo tiêu thức này có thể chia ngân hàng thương mại thành các loại sau:
- Ngân hàng hội sở;
- Ngân hàng chi nhánh (cấp 1 và cấp 2) và phòng giao dịch.
1.4. Vai trò của ngân hàng thương mại.
Vai trò của ngân hàng thương được xác định dựa trên cơ sở các chức năng của
ngân hàng thương mại. Bởi chức năng là tính vốn có của ngân hàng thương mại và vai
trò của ngân hàng thương mại cũng chính là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt
động thực tiễn. Vai trò của ngân hàng thương mại thay đổi cùng với sự phát triển kinh
tế xã hội và phụ thuộc vào các hoạt động chủ quan của các cơ quan quản lý. Vai trò
của ngân hàng thương mại được thể hiện ở hai mặt. Đó là thực thi chính sách tiền tệ đã
được hoạch định bởi ngân hàng trung ương và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô
nền kinh tế bằng nghiệp vụ tạo tiền.
1.4.1. Vai trò thực thi chính sách tiền tệ.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng trung ương, để thực thi
chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như: lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết
khấu, thị trường mở, hạn mức tín dung, … Chính các ngân hàng thương mại là chủ thể
chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối
trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng
và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài
chính trung gian khác, tình hình, sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt,
tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá, … của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng
trung ương để chính phủ và ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết thích
hợp với từng tình hình cụ thể.
1.4.2. Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng
tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương sử dụng
các công chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết là trong hệ thống
ngân hàng thương mại. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng ngày của

ngân hàng trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của ngân hàng trung
ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã
vạch ra.
Sự điều tiết tiền tệ có thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt
động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Nội dung quan trọng của điều tiết
tiền tệ là điều hòa khối tiền tệ. Điều hòa khối tiền tệ có nghĩa là điều chỉnh việc tạo
tiền và sử dụng tiền của ngân hàng thương mại, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định
tiền tệ.
Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của
ngân hàng trung ương (như tỷ lệ dự trữ bắt buộc) trong khi thực hiện hoạt động kinh
doanh của mình, ngân hàng thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp
phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương thông qua chính sách
tiền tệ.
1.5. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Hoạt động huy động vốn;
- Hoạt động cấp tín dụng;
- Hoạt động dịch vụ thanh toán;
- Hoạt động ngân quỹ;
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 4 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
- Các hoạt động khác như:góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ,
kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ
và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan
đến hoạt động ngân hàng.
1.5.1. Hoạt động huy động vốn.
- Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi;
- Phát hành giấy tờ có giá;
- Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước;

- Vay vốn của ngân hàng nhà nước;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
1.5.2. Hoạt động cấp tín dụng.
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức sau:
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn;
- Bảo lãnh;
- Chiết khấu;
- Cho thuê tài chính;
- Bao thanh toán;
- Tài trợ xuất nhập khẩu;
- Cho vay thấu chi;
- Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng.
1.5.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Để thực hiện được dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp, cá nhân thông
qua ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và
ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua ngân
hàng nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng nhà
nước nơi ngân hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ
bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài
khoản tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi
nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt
động sau:
- Cung ứng các phương tiện thanh toán;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép;
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và

tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống
thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Ngân hàng thương mại được thực hiện dịch vụ ngân quỹ thông qua hoạt động
thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
1.5.4. Các hoạt động khác.
Ngân hàng thương mại được thực hiện các hoạt động khác bao gồm:
- Góp vốn, mua cổ phần;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Kinh doanh ngoại hối và vàng;
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 5 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
- Nghiệp vụ ủy thác và đại lý;
- Kinh doanh bất động sản;
- Kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm;
- Dịch vụ tư vấn tài chính;
- Bảo quản vật quý giá;
- Các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.



































Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 6 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA (2006-2008)


2.1. Sơ lược hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

Hiện nay, hệ thống ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống ngân hàng 2 cấp gồm có:
cấp Ngân hàng Nhà nước và cấp Ngân hàng Thương mại. Trong đó, Ngân hàng Trung
ương quản lý tất cả các Ngân hàng Thương mại trên cả nước.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính đến cuối năm 2008,
nước ta có số lượng ngân hàng thương mại như sau:
- 6 ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng
Bằng Sông Cửu Long, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam.
- 36 ngân hàng thương mại cổ phần như: Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng thương mại cổ
phần Đông Á, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín, …
- 6 ngân hàng liên doanh như: ngân hàng Việt Thái, Ngân hàng Việt Nga, …
- 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài như: ngân hàng NATEXIS(Pháp), ngân
hàng Chinatrust Com. Bank, ngân hàng ANZ, …
- 7 công ty tài chính
- 8 công ty cho thuê tài chính
- 23 chi nhánh quỹ tín dụng Ngân hàng Trung ương
- Khoảng 888 quỹ tín dụng cơ sở
2.2. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam qua các
năm 2006, 2007 và 2008.
2.2.1. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
năm 2006.
Năm 2006, tình hình kinh tế thế giới ổn định do đó đã tác động tích cực đến
kinh tế Việt Nam. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2006 tăng 8,17% so với năm
2005. Lãi suất cơ bản trong cả năm 2006 là 8,25%/năm.
Có thể nói năm 2006 là năm thành công nhất của hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam từ trước tới nay. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua sự phát triển vượt bậc
cả về quy mô cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống . Hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cả về huy động vốn và cho vay.

Trong đó, thị phần huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước
chiếm hơn 50% so với các ngân hàng thương mại khác. Các tổ chức tín dụng và các
ngân hàng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
Nguyên nhân thành công là do thời cơ mang lại từ sự phát triển, hội nhập đất
nước, từ chủ trương chính sách của Đảng , Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng,
một phần do nổ lực của bản thân các ngân hàng trong việc chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
2.2.2. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
năm 2007.
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 7 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
Diễn biến của tình hình kinh tế thế giới năm 2007 khá phức tạp với việc suy
giảm của thị trường chứng khoán thế giới, sự sụp đổ của thị trường cho vay nhà, đất ở
Mỹ đã đưa đến hoạt động của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng của tình hình kinh tế
thế giới nhưng chưa rõ nét. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 tăng 8,44%
so với năm 2006, cao nhất trong 11 năm qua có nguyên nhân từ hoạt động có hiệu quả
của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng tới
12,63% so với năm 2006 có nguyên nhân từ điều hành chính sách tiền tệ của ngân
hàng nhà nước.
Đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại thì cũng đã tăng trưởng cao
với việc huy động và cho vay đều tăng cao so với năm 2006. Đặc biệt là sự kiện cổ
phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) vào tháng 12 năm 2007.
Ngoài ra, thành lập thêm 4 ngân hàng thương mại cổ phần sau hơn 10 năm Ngân hàng
Nhà nước không cấp phép thành lập mới. Đó là các ngân hàng thương mại cổ phần
Bảo Việt, ngân hàng thương mại cổ phần Tài chính Dầu khí, ngân hàng thương mại cổ
phần Liên Việt, ngân hàng thương mại cổ phần FPT với tổng số vốn điều lệ lên đến
10.500 tỷ đồng. Tăng trưởng tín dụng nóng lên tới 37,8% so với năm 2006. Nguồn
kiều hối chuyển về nước tăng cao nhất từ trước đến nay đến cuối năm 2007 đạt khoảng

6 tỷ USD.
Năm 2007 đánh dấu một bước phát triển cơ bản về hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tiêu biểu đó là đưa vào sử dụng Công
nghệ phần mềm lõi Core Banking; trên cơ sở phần mềm lõi, ngân hàng thương mại đã
phát triển thêm nhiều chương trình quản lý sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích và
hiện đại khác, phát triển chương trình quản lý và điều hành nội bộ, giao dịch ngân
hàng một cửa, chuyển tiền điện tử, …
Tính đến hết năm 2007, cả nước có khoảng 8,2 triệu tài khoản cá nhân, với gần
6 triệu thẻ ATM đã được phát hành, trên 4.500 máy ATM đã được lắp đặt. Các ngân
hàng thương mại còn cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng khác trên tài khoản như thấu
chi trên tài khoản, với hạn mức thấu chi dựa trên thu nhập ổn định hàng tháng, mức
tiền lương và tài sản đảm bảo khác,… Trong những ngày cuối năm 2007, Banknet và
Smarlink - do Vietcombank chủ trì cùng 15 ngân hàng thương mại cổ phần và 2 cổ
đông sáng lập khác đã ký kết thỏa thuận hợp tác kết nối hai mạng thanh toán thẻ ATM
lớn nhất Việt Nam, tạo cơ sở liên thông toàn bộ thị trường thẻ trong năm 2008.
Với chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước quy định đến 31/12/2007, các tổ chức tín dụng phải đưa tỷ lệ dư nợ vốn cho
vay, chiết khấu giấy tờ có giá, … để khách hàng đầu tư, kinh doanh chứng khoán về
mức dưới 3% tổng dư nợ đã hạn chế dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại đối
với đầu tư, kinh doanh chứng khoán.
Có thể nói hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong năm
2007 đã gặt hái nhiều thành công nhờ một phần rất lớn từ nổ lực của các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên cũng còn tồn tại một số bất cập như cho vay quá nhiều vào đầu
tư, kinh doanh chứng khoán và bất động sản mà chưa thẩm định kỹ khách hàng.

2.2.3. Tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
năm 2008.
Năm 2008 là năm cả trong nước và trên thế giới tình hình kinh tế xã hội có
nhiều biến động phức tạp.
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH: Nguyễn Đức Trung 8 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
Trên thế giới trong những tháng đầu năm 2008 giá dầu thô và nhiều loại vật tư,
lương thực tăng cao; sự suy yếu của thị trường tài chính; đồng USD mất giá, kinh tế
Mỹ giảm sút đã ảnh hưởng rộng đến các nền kinh tế khác. Chỉ tính riêng ở Mỹ từ đầu
năm 2008 đến tháng 10 năm 2008 đã có 23 ngân hàng bị giải thể, đóng cửa trong đó có
những ngân hàng rất lớn có lịch sử thành lập từ lâu, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh,
đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên tới 6,7%, tăng 2% so với tỷ lệ thất
nghiệp năm 2007.
Trong nước nền kinh tế còn nhiều khó khăn thách thức như: ảnh hưởng của lạm
phát kéo dài đối với các doanh nghiệp , đời sống người lao động còn nhiều khó khăn.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 tăng 6,23% so với năm 2007. Nếu 6
tháng đầu năm 2008 sự gia tăng mạnh của giá dầu, giá lương thực, sự giảm giá của thị
trường bất động sản, thị trường chứng khoán
Trong bối cảnh chung đó, hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn. Trong 6 tháng đầu năm 2008 chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải
pháp để kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững. Một trong các nhóm giải pháp đó là thực hiện chính sách tài chính
tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả. Do đó, chính phủ đã yêu cầu ngân hàng nhà nước thực hiện
các biện pháp để thắt chặt tiền tệ.
Với tinh thần trên, sau nhiều năm thực hiện điều hành cơ chế lãi suất thỏa
thuận, ngày 16 tháng 5 năm 2008, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban
hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
bằng đồng Việt Nam trên cơ sở quy định của Bộ Luật Dân sự được Quốc hội thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005. Theo đó, kể từ ngày 19 tháng 5 năm 2008, Ngân hàng
Nhà nước xóa bỏ cơ chế lãi suất trần huy động bằng đồng Việt Nam và sử dụng công
cụ lãi suất cơ bản để điều tiết lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam của các tổ chức
tín dụng theo tín hiệu thị trường. Lãi suất cơ bản đã tăng liên tục từ 8,25%/năm trong
tháng 1 năm 2008 lên đến 14%/năm trong tháng 6 năm 2008. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của
các ngân hàng thương mại cũng tăng lên tương ứng.
Việc Ngân hàng Nhà nước thay đổi cơ chế điều hành lãi suất đã làm cho nhiều

ngân hàng thương mại và doanh nghiệp lúng túng trong việc xác định lãi suất cho vay
trong các hợp đồng tín dụng đã được ký kết. Lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại lên đến 21%/năm đã gây ra khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp vay
vốn. Nguồn cung về vốn cũng rất hạn chế và nhiều ngân hàng thương mại đã có dấu
hết mất tính thanh khoản do đó họ đã nâng lãi suất huy động lên rất cao có lúc lên tới
gần 20%/năm. Với mức lãi suất huy động hấp dẫn như vậy nên nhiều khách hàng đã
rút tiền ở ngân hàng có lãi suất thấp và gửi tiền ở ngân hàng có lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, trong 6 sáu tháng cuối năm 2008 tình hình lại diễn biến theo chiều
hướng ngược lại tốt hơn. Việc chính phủ đề ra 5 nhóm giải giải pháp vào tháng 12 năm
2008; trong đó thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, hiệu quả. Do đó, lãi
suất cơ bản đã giảm liên tục từ 14%/năm trong tháng 7 năm 2008 xuống còn
8.5%/năm trong tháng 12 năm 2008 gần bằng với lãi suất cơ bản đầu năm 2008. Đi đôi
với việc hạ lãi suất cơ bản thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm từ 8% trong tháng 11
năm 2008 xuống còn 5% trong tháng 12 năm 2008. Lãi suất cơ bản giảm đã kéo lãi
suất cho vay và huy động của các ngân hàng thương mại giảm theo. Các doanh nghiệp
đã bớt khó khăn hơn do gánh nặng lãi suất. Mặt khác, vào cuối năm 2008 chính phủ đã
đưa ra gói kích cầu 6 tỷ USD nhằm đưa hoạt động của các doanh nghiệp trong nước
vượt qua giai đoạn suy thoái kinh tế.
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 9 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
Nhìn chung năm 2008 do điều kiện kinh tế thế giới bị suy thoái và Việt Nam
cũng đã bị ảnh hưởng nên hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân do thị trường chứng khoán Việt Nam bị suy
giảm mạnh và thị trường bất động sản bị đóng băng nên việc thu hồi vốn vay của hai
thị trường này hết sức khó khăn. Mặt khác do điều hành quản lý kinh tế vĩ mô của
chính phủ còn nhiều yếu kém như:
- Thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm làm tăng dư nợ tín dụng
quá nóng.
- Bội chi ngân sách liên tục trong nhiều năm trong khi quy mô nền kinh tế ngày
càng lớn nhưng chưa đặt kế hoạch phấn đấu giảm bội chi, do đó không tạo áp lực đối

với việc kiểm soát và tiết kiệm chi tiêu ngân sách, chi đầu tư phát triển từ khu vực nhà
nước còn lớn mà hiệu quả lại thấp.
- Vai trò của nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, quản lý xuất nhập khẩu
còn nhiều bất cập, yếu kém, chậm đề ra các chính sách thích hợp, có hiệu quả để quản
lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các hoạt động này.
- Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi trọng đúng
mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý
điều hành.
- Công tác thông tin tuyên truyền, giải thích tình hình chưa kịp thời, chưa đủ rõ
và thiếu nhất quán trước những diễn biến mới và khi ban hành các chính sách, giải
pháp có tính nhạy cảm, gây xao động, lo lắng trong xã hội. Chưa quản lý và chỉ đạo tốt
các phương tiện thông tin đại chúng tham gia thiết thực, hiệu quả trong việc thực hiện
những nhiệm vụ cấp bách, quan trọng của đất nước.
Nhìn lại những thành quả đạt được, tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm
trong hoạt động ngân hàng trong năm 2008, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng
rằng bước sang năm 2009, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của
chính phủ, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua thách thức, khó khăn
hoàn thành tốt nhiệm vụ của ngành, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong năm 2009 và trong tương lai.




















Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 10 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1


CHƯƠNG 3 : NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ
HOÀN THIỆN PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. Định hướng về chiến lược chung cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam nên sáp nhập lại với nhau để có nguồn
vốn tài chính lớn tương đương với các ngân hàng thương mại lớn của quốc tế. Từ đó
tạo ưu thế cạnh tranh với quốc tế.
Không nên thành lập quá nhiều ngân hàng thương mại mà nên chú trọng đến
chất lượng hơn là số lượng.
Ngày càng hoàn thiện và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng hơn nữa. Đa
dạng hóa các sản phẩm ngân hàng theo chiều sâu.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả trong hoạt động thanh tra, giám sát trong
nội bộ các ngân hàng thương mại.
3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
Hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật về thanh tra, giám sát hoạt động các

ngân hàng và các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đi đôi với việc
củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động ngân hàng, nhằm tạo
sự đồng thuận của xã hội đối với hoạt động ngân hàng, đồng thời tạo thêm kênh giám
sát xã hội đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hoàn thiện hơn nữa Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức Tín dụng,
Luật Bảo hiểm Tiền gửi, Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, tập trung nghiên
cứu chỉnh sửa hoàn thiện các qui định về ngoại hối, về đảm bảo an toàn, về cơ cấu tổ
chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng.
3.3. Những giải pháp về hoạt động huy động vốn, cho vay, thanh toán.
+ Về hoạt động huy động vốn.
Đa dạng hơn nữa các hình thức huy động bằng nhiều loại sản phẩm tiền gửi
tương ứng với nhiều loại khách hàng khác nhau và nhiều cách thức huy động khác
nhau.
Tạo sự tin cậy ở khách hàng khi gửi tiền tại ngân hàng bằng các biện pháp như
bảo hiểm tiền gửi.
Ngày càng hoàn thiện hơn nữa phong cách phục vụ khách hàng nhanh chóng,
tiện lợi, và an toàn.
+ Về hoạt động cho vay.
Thẩm định kỹ khách hàng trước khi cho vay.
Đơn giản hơn nữa thủ tục khi vay vốn để rút ngắn thời gian khi vay vốn.
Phục vụ khách hàng vay vốn với thái độ ân cần, chu đáo, niềm nở giải thích kỹ
cho khách hàng.
+ Về hoạt động thanh toán.
Tạo sự nhanh chóng, chính xác, tiện lợi khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán như:
chuyển tiền, mua bán ngoại tệ,…
Cần kết nối toàn diện trong hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng.
Tiểu luận GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh
HVTH: Nguyễn Đức Trung 11 Lớp: CH Ngân hàng Ngày 1
Nâng cao hơn nữa trình độ đội ngũ làm công tác thanh toán với quốc tế.






×