Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nhà chí sĩ Ngô Đức Kế Từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo Phần 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.56 KB, 8 trang )

Nhà chí sĩ Ngô Đức Kế -
Từ tù nhân Côn Đảo đến
một nhà báo
Phần 1



Kỷ niệm 130 năm ngày sinh chí sĩ Ngô Đức Kế (1878-2008)

I. NGÔ ĐỨC KẾ, TÙ NHÂN CÔN ĐẢO
Ngô Đức Kế, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1901) triều Thành Thái; sau khi đỗ ông nằm
nhà đóng cửa, nghiên cứu tân thư. Học thuyết Âu - Tây mà Trung Quốc đã dịch thành sách,
ông đọc được nhiều và có chỗ tâm đắc (Huỳnh Thúc Kháng).
Năm 1906 hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu - người mà chính quyền thuộc
địa Pháp ở Đông Dương mệnh danh là “linh hồn của các cuộc nổi loạn dân tộc” - Ngô Đức
Kế đã cùng Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn và Giải nguyên Lê Văn Huân lập Triêu Dương
thương quán, nhằm mục đích chấn hưng công thương nghiệp nhưng mặt khác, đúng như Nha
mật thám Phủ Toàn quyền Đông Dương khẳng định: “Ngô Đức Kế hợp tác với Đặng Nguyên
Cẩn, giả danh hoạt động buôn bán nhưng kỳ thực là để gửi ngân quỹ cho Phan Bội Châu”
(1)
.
Tháng 3 năm 1908 phong trào chống thuế bùng nổ ở Quảng Nam, phát triển nhanh
chóng và mãnh liệt, phía nam đến Bình Định, phía bắc đến Hà Tĩnh, thực dân Pháp nhận ra
rằng những lời “huyết lệ” của các sĩ phu yêu nước, một khi thấm sâu vào các tầng lớp dân
chúng nghèo khổ đã có thể xốc lên một phong trào quần chúng đáng sợ!. Chúng sẽ thẳng tay
đàn áp, mặc dầu các chí sĩ Duy Tân không trực tiếp phát động và chỉ đạo phong trào này.
Tiến sĩ Trần Quý Cáp đang làm Giáo thụ ở Khánh Hoà phải lên đoạn đầu đài. Các ông Nghè,
ông Cống và những người dân yêu nước liên quan đến các cuộc vận động Duy Tân, Đông
Du, Đông Kinh nghĩa thục đều bị đày ra Côn Đảo.
Thân sinh Ngô Đức Kế là Ngô Huệ Liên, lúc ấy đang làm Thị lang bộ Lễ ở
Huế, được tin con trưởng vì vướng “quốc sự” đã bị bắt giam ở nhà lao Hà Tĩnh và chắc khó


tránh khỏi trọng án, liền gửi cho con lời khuyên:
Dữ kỳ du sinh ẩn nhẫn
Chung vi dị địa chi tù
Hạt nhược khảng khái thành nhân
Du tắc cố sơn chi quỷ.
Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Nếu như ẩn nhẫn chờ ngày,
Không khỏi làm tù xứ khác;
Sao bằng liều mình khảng khái
Còn được làm ma đất nhà
(2)

Nhưng Ngô Đức Kế sẽ chọn cho mình con đường khảng khái tựu nghĩa khác. Theo
Huỳnh Thúc Kháng thì “thân hào trong nước, mang cái chức tù vào nhà ngục thì Ngô Đức Kế
là người thứ nhất”. Nằm trong ngục Hà Tĩnh ông tự vịnh:
Niên lai ái thuyết văn minh học
Dinh đắc nam quan tác Sở tù
Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Ham học văn minh đà mấy lúc
Mão tù đâu khéo cấp cho ông!
và bình: “Học văn minh mà đổi được chức tù, câu nói chua cay và sâu sắc”
(3)
.
Tháng 9 năm 1908 đoàn tù đầu tiên ra Côn Đảo. Huỳnh Thúc Kháng kể: Khi nhóm tù
Nam - Ngãi lên tàu thuỷ ở bến sông Cửa Hàn (Đã Nẵng) thấy một bọn “cổ gông chân xiềng”,
đoán là thân sĩ Nghệ - Tĩnh, hỏi tên thì là Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân.
Hai bên “ngó mặt nhau mà cười”
(4)
. Đến Côn Đảo nhận thẻ tù. Đó là một miếng gỗ vuông,
trên khắc số tù, loại án tù, phải luôn đeo ở trước ngực, Ngô Đức Kế đùa: Thẻ chúng ta đeo

đây cũng như bài ngà mà các quan ở Huế thường đeo lòng thòng trước ngực, trông cũng dễ
coi!
Đặng Nguyên Cẩn đế thêm: Nhưng nếu nói công dụng thì thẻ của chúng ta có thực
dụng hơn vì thay được tên họ, không giống như các bài ngà Hàn Lâm, Hành Tẩu hay Cung
Phụng, ai cũng như thế, không lấy gì làm phân biệt. Cả bọn cùng cười
(5)
.
Ở Côn Đảo, Phan Chu Trinh không bị giam trong khám mà được sống “tự do” ở ngoài
làng An Hải, Huỳnh Thúc Kháng sau đó được chọn làm thư ký phòng giấy của trại tù, Đặng
Nguyên Cẩn có thời gian được phân công đi bắt đồi mồi, chế tác đồ mỹ nghệ, riêng Ngô Đức
Kế luôn phải làm việc khổ sai nặng nhọc ở Sở ruộng, Sở gỗ (đốn cây, cưa gỗ ) thế mà sau
giờ làm ông vẫn tranh thủ, mầy mò tự học tiếng Pháp. Huỳnh Thúc Kháng kể: Tôi ra Đảo có
mang theo một quyển Pháp - Việt từ điểncủa Trương Vĩnh Ký, sau mua thêm được vài cuốn
Tập đọc, Ngữ pháp cùng một quyển Lịch sử nước Pháp. Tôi cùng Ngô Đức Kế và vài ba
người nữa hàng ngày làm việc xong, trở về khám thì cùng nhau học tiếng Pháp. Chúng tôi
học tiếng Pháp bằng con mắt với cái não nên nghe và nói hay sai vận và không được lanh lẹ,
song đọc sách hiểu nghĩa, đặt câu và phiên dịch biết được đại khái
(6)
.
Việc học chữ Pháp trong nhà tù Côn Đảo, đối với Ngô Đức Kế, không định trước
nhưng đã thành một bước chuẩn bị hữu ích cho công việc làm báo về sau.
Chúng ta thấy Ngô Đức Kế và các tù nhân yêu nước khác trong thời gian bị đày ra
Côn Đảo - mà người ta cho như đã cầm chắc cái chết - vẫn kiên định một thái độ sống ngoan
cường, một tinh thần lạc quan hiếm có. Các cụ còn biến nhà tù thành một “Câu lạc bộ thơ”
bằng cách tổ chức thi thơ vào những dịp đặc biệt, hoặc làm thơ điếu tang đồng chí hy sinh
hay có thân nhân từ trần. Kỷ niệm ngày ra Côn Đảo, Ngô Đức Kế làm bài tuyệt cú có câu:
Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn,
Bách chiết thiên ma khí thượng tồn!
Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn,

Ma chiết trăm chiều khí vẫn còn
(7)
.
Trong Văn tế Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã nồng nhiệt ca ngợi khí phách lạc
quan kiên cường của ba đồng chí của mình ở Côn Đảo là Đặng Nguyên Cẩn, Huỳnh Thúc
Kháng, Ngô Đức Kế như sau:
Đặng, Hoàng, Ngô, ba bốn bác hàn thuyên, khi uống rượu,
khi ngâm thơ,
ngoài cửa ngục lầm than mà khảng khái
(8)
.
Riêng về Ngô Đức Kế, nếu tính từ năm ông đỗ Tiến sĩ (1901) cho đến năm rời nhà tù
Côn Đảo (1921) là tròn 20 năm trực tiếp dấn thân vào cuộc đấu tranh vì nền độc lập của dân
tộc. Trong suốt thời gian ấy có thể nói Ngô Đức Kế là hiện thân của bản lĩnh, của khí
phách Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất (Mạnh Tử - Đằng
Văn công hạ). Cũng với bản lĩnh đó, khí phách đó, Ngô Đức Kế sẽ tiếp tục sống và chiến đấu
trong 8 năm cuối cùng của cuộc đời mình ở một môi trường mới, với sứ mệnh mới.
II. NGÔ ĐỨC KẾ, NHÀ BÁO
Đầu năm 1921 Ngô Đức Kế cùng hai đồng chí và bạn văn thơ tri kỷ là Đặng Nguyên
Cẩn và Huỳnh Thúc Kháng mãn hạn tù, trở về đất liền trên cùng một chuyến tàu, giống như
13 năm trước họ đã bị giải ra Côn Đảo trên cùng một chuyến tàu. Đặng Nguyên Cẩn sức
khoẻ suy sụp, về nhà được hơn một năm thì qua đời, còn Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng
thì may mắn được tiếp tục cuộc đấu tranh trên một trận địa mới: Báo chí.
Theo bản án phóng thích thì Ngô Đức Kế sẽ bị quản chế ở quê nhà nhưng đến tháng
12 năm 1922 ông đệ đơn lên Công sứ Hà Tĩnh xin ra Hà Nội sinh sống và không đợi trả lời,
ông cứ ra Hà Nội, thuê nhà ở số 14 phố Hàng Điếu, kiếm sống bằng nghề viết chữ Hán cho
một hiệu đối trướng. Cuối cùng Chánh mật thám Trung kỳ bác đơn của ông nhưng Nha mật
thám Đông Dương thì thừa nhận “một sự đã rồi”, không trục xuất ông trở về quê cũ, lý do
đơn giản là họ cho rằng: để ông ở Hà nội thì việc giám sát sẽ chặt chẽ hơn. Đúng như vậy,
qua tài liệu lưu trữ tại Aix-en-Provence thì thấy mật thám Pháp đã không bỏ qua bất cứ một

động tĩnh nhỏ nào liên quan đến ông: chẳng hạn một vài bà o, bà dì, từ Hà Tĩnh ra thăm ông
cũng bị nghi là làm “liên lạc”. Giáo sư Lê Thước dạy học ở trường Albert Sarraut (Hà Nội)
thường đến thăm ông cũng bị mật thám theo dõi
(9)
nhưng mặt khác thực dân Pháp lại tìm
cách mua chuộc ông. Tháng 4 năm 1923, với danh nghĩa Nam Triều, họ “phục chức” Tiến sĩ
cho ông, thậm chí sau đó thấy ông phải làm nhân công cho Sở Hoả xa Vân Nam rất vất vả họ
còn trù tính cả việc cho ông một chức vụ gì nhưng rồi lại sớm từ bỏ ý định đó, vì đoán là ông
sẽ từ chối.
Cuối năm 1923 ông nhận lời mời của Hội Trung - Bắc kỳ Nông Công Thương tương
tế làm Chủ bút tạp chí Hữu Thanh ở Hà Nội. Thế là một cựu tù nhân Côn Đảo lại trở thành
một nhà báo; một ông Nghè quen múa bút lông viết chữ Hán, nay lại cầm bút sắt viết bài,
duyệt bài bằng chữ Quốc ngữ. Một cuộc “đổi nghề” dũng cảm nhưng không phải là phiêu
lưu! Lịch sử sẽ đặt ông trước những thử thách mới, và cho ông cả một điều an ủi: đầu năm
1926 tạp chí Hữu Thanh của ông bị đóng cửa thì một năm sau, một bạn tù Côn Đảo của ông -
Huỳnh Thúc Kháng - lại ra làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo Tiếng dân, số đầu xuất bản ở
Huế ngày 10 tháng 10 năm 1927.
Tình hình báo giới như thế nào khi Ngô Đức Kế bước vào làng báo?
Để có thể nhận rõ vấn đề này cần ngược dòng thời gian lên đầu thế kỷ. Sau khi dẹp
được cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Đình nguyên Phan Đình Phùng (1896) thực dân Pháp
tự cho là đã làm chủ được tình hình Đông Dương. Đầu năm 1902 Toàn quyền Paul Doumer
báo cáo về bộ Thuộc địa Pháp ở Paris: “Từ năm 1897 đến nay không hề có một lính Pháp nào
chết vì trận mạc ở Đông Dương”
(10)
, nhưng rồi ngay sau đó, dưới ảnh hưởng của tân thư
Trung Quốc, của cuộc Minh trị Duy tân Nhật Bản, của các tư tưởng dân chủ, dân quyền của
Rousseau, Montesquieu, Voltaire được du nhập vào nước ta, hàng loạt phong trào cứu nước
có mầu sắc mới lại liên tiếp bùng nổ: Phong trào Đông Du (1904-1908), Đông kinh nghĩa
thục (1907), phong trào Duy Tân (1906-1908), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908), vụ
đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội (27-6-1908), trong lúc đó nghĩa quân Yên Thế chấm dứt

thời kỳ tạm đình chiến, đang hoạt động trở lại (1908-1913). Thực dân Pháp hoảng sợ, nhận ra
rằng chúng chỉ mới làm chủ tình hình trên lĩnh vực quân sự mà chưa bình định được cái mà
De Lanessan, Toàn quyền Đông Dương, đã gọi rất đúng là ý thức dân tộc của dân bản xứ.
Hội nghị thuộc địa năm 1906 ở Paris sẽ thông qua một nhận định có tính chất chính sách “chỉ
chinh phục đất đai không đủ mà còn phải chinh phục tâm hồn nữa”
(11)
; điều này có nghĩa là
thực dân Pháp thấy cần phải củng cố thắng lợi quân sự bằng một chính sách văn hoá nô dịch,
bao quát từ lĩnh vực giáo dục sang báo chí. G. Dumoutier, Thanh tra giáo dục Bắc Kỳ viết:
“Muốn thay đổi hình dáng, mầu sắc của một cái cây, không thể bắt đầu với cái cây đã phát
triển hoàn toàn mà phải tác động từ hạt giống. Muốn biến đổi một dân tộc cũng phải làm như
vậy. Nếu chúng ta muốn đặt được vĩnh viễn ảnh hưởng của nước Pháp trên phần đất này của
thế giới thì phải làm cho họ tiêm nhiễm tư tưởng của chúng ta, dạy cho họ tiếng nói của
chúng ta và phải bắt đầu từ nhà trường và chú ý trước tiên đến trẻ em”
(12)
.
Thực dân Pháp sẽ thực hiện một chính sách mới mà Nha mật thám Đông Dương gọi
một cách văn vẻ là “cuộc chinh phục tinh thần tiếp theo cuộc chinh phục vật chất”. Trong
cuộc chinh phục này họ sẽ rất coi trọng phương tiện báo chí. Đây là thời tung hoành
của Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí.
Đông Dương tạp chí ra đời ít lâu sau vụ ném tạc đạn vào Khách sạn Hà Nội (26-4-
1913), hai sĩ quan Pháp bị chết, một số người Pháp, người Việt bị thương. Tạp chí liền lớn
tiếng chửi bới các chiến sĩ vụ mưu sát là “đồ mọt giun, đồ dối trá, đồ vô học”, “dùng chước ăn
mày” và hăm doạ nếu bắt được thì sẽ “bỏ rọ lăn sông” (bài “Vụ một trái phá”, Đông Dương
tạp chí, số 1, ra ngày 15-5-1913). Trong bài Gốc loạn, đăng Đông Dương tạp chí, số 2,
Nguyễn Văn Vĩnh viết: “Khởi thuỷ là bọn Phan Bội Châu, là một bọn nguỵ nho. Bọn ấy thấy
nước Lang sa sang đây, dùng nhân tài một cách mới, đã là một sự thiệt thòi cho họ, xưa nay
chỉ biết lấy có mấy chữ “chi, hồ” làm thang mây lên chốn công đường”. Tuyên truyền cho
"chủ nghĩa Pháp - Việt", Nguyễn Văn Vĩnh viết: “Ta là phận kẻ yếu, số kiếp thế nào cũng là
phải có người đè nén, may mà ta được thầy Đại Pháp thì cố mà giữ riết lấy thầy Đại Pháp”

(bài Phương châm, Đông Dương tạp chí, số 1); “Vận mệnh nước ta không gì bằng nhờ ở tay
người Đại Pháp. Hễ dân khôn ngoan cứ núp dưới bóng cờ tam tài mà làm ăn thì mỗi ngày là
một thêm sung sướng, thêm khôn ngoan, thêm học thức, thêm buôn bán, thêm giàu
mạnh” (Đông Dương tạp chí, số 69, ra ngày 10-9-1914).
Thiết tưởng trích dẫn chừng ấy cũng đã quá đủ và cũng không cần bình luận gì thêm.
Thực dân Pháp liền đẩy Nguyễn Văn Vĩnh lui về làm công việc dịch thuật và trong lĩnh vực
này Nguyễn Văn Vĩnh đã có thành tích lớn, mặc dầu việc phân tích và giới thiệu ý nghĩa các
tác phẩm được dịch cũng có điểm chưa thoả đáng.
Khác với Đông Dương tạp chí được tung ra một cách vội vàng, Nam Phong tạp
chí được chuẩn bị rất chu đáo. Toàn bộ bản thảo các bài dự kiến sẽ ra mắt trong số 1 đều
được dịch ra tiếng Pháp để Toàn quyền Đông Dương duyệt trước, có kèm theo những lời
nhận xét của Chánh mật thám Bắc Kỳ. Về bài Mấy nhời nói đầu trong đó có câu: “Biết đâu
đến ngày ta có đủ tư cách mà quản trị lấy công việc ta thì nhà nước hẹp gì mà chẳng cho ta
được quyền tự trị”, viên Chánh mật thám nhận xét:“Đoạn này viết rất có dụng ý. Nó là một lỗ
thoát hơi cần thiết cho những tình cảm dân tộc ở xứ này”.
Trong bài Khái luận về văn minh học thuật nước Pháp, Phạm Quỳnh viết: “Nước
Pháp lấy thuộc địa là để bảo hộ cho dân hậu tiến, bênh giữ quyền lợi cho người dân, dạy dỗ
cho, đưa dắt lên đường văn minh, thiết tưởng cái lối đi lấy thuộc địa như thế không những
không phải là một sự phi nghĩa, mà lại chính là một việc đại nghĩa vậy” (!). Viên Chánh mật
thám bình: “Lợi dụng một cách tài tình đề tài một tác phẩm được giải thưởng tiểu thuyết năm
1916 của Victor Giraud, Chủ bút tờ báo - ông Phạm Quỳnh - đã đề cao sứ mạng vĩ đại của
nước Pháp trong lịch sử tư tưởng, nghệ thuật và khoa học của nhân loại. Lập luận chặt chẽ,
đầy dẫn chứng cụ thể, đủ để gây một ấn tượng sâu xa vào lý trí người đọc” Kết thúc tờ
trình, viên Chánh mật thám viết: “Tôi không muốn cho phép số 1 này xuất bản khi chưa được
sự quyết định tối cao của Ngài. Nhưng những bản dịch các bài của bản thảo số 1 đính theo
đây đủ chứng minh cho Ngài biết những người cộng tác trẻ tuổi của chúng ta đã hoạt động
nhiệt thành đến mức độ nào, đến nỗi tôi không hề muốn làm cho họ có chút nản lòng nào
nữa, đồng thời tôi đã có đầy đủ lý do để tin chắc rằng họ rất mực thật thà và trung thành với
chúng ta” Dưới góc trái của tờ trình này có lời phê: “Chuẩn y. Ngày 1-5-1917. Ký: Albert
Sarraut”.

Nhưng chưa hết sự quan tâm của các viên trùm thực dân Pháp đối với tạp chí Nam
Phong. Sau khi số 1 phát hành, Toàn quyền Đông Dương còn lệnh cho Phủ Thống sứ Bắc
Kỳ điều tra xem văn phong của tạp chí có dễ hiểu với đông đảo người đọc hay không (!)
(13)
.

×