Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

BÁO cáo THỊ TRƯỜNG quý II năm 2011 phòng phân tích đầu tư CTCP chứng khoán FPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 26 trang )


 2008 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 0



BÁO CÁO THỊ TRƯỜNG
Quý II/2011

www.fpts.com.vn





























NỘI DUNG
CÁC TỪ VIẾT TẮT 1
KINH TẾ THẾ GIỚI 2
KINH TẾ VIỆT NAM 5
Tăng trưởng GDP 5
Cán cân Thương mại 8
Chỉ số giá tiêu dùng - CPI 13
Thị trường tài chính 15
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 18
Thị trường chứng khoán quý II/2011 18
Phân tích kỹ thuật 19
PHỤ LỤC 24
















Phòng Phân tích Đầu tư
CTCP Chứng khoán FPT







Trụ sở chính
Tầng 2, 71 Nguyễn Chí
Thanh
Quận Đống Đa - Hà Nội
ĐT: (84.4) 3773 7068
Fax: (84.4) 3773 9056

Chi nhánh Hồ Chí Minh
Số 29- 31, Nguyễn Công
Trứ
Phường Nguyễn Thái Bình
Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (84.8) 290 86 86
Fax: (84.8) 290 60 70

Chi nhánh Đà Nẵng
Số 124, Nguyễn Thị Minh
Khai, Quận Hải Châu, TP.

Đà Nẵng
ĐT: (84.511) 355 36 66
Fax: (84.511) 355 38 88

Các nghiên cứu và báo cáo
khác được công bố tại:


Các tuyên bố quan trọng
nằm ở cuối báo cáo này.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 1



























































CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
CPI
Chỉ số giá tiêu dùng
ECB
Ngân hàng Trung Ương Châu Âu
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GSO
Tổng cục Thống kê
HOSE
Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh
HNX
Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội
ODA

Viện trợ phát triển nước ngoài
PMI
Chỉ số quản lý sản xuất
SBV
Ngân hàng nhà nước Việt Nam
USD
Đồng đô la Mỹ











Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 2

























































KINH TẾ THẾ GIỚI
Tổng quan kinh tế thế giới nửa đầu năm 2011 là bức tranh không hoàn toàn tươi
sáng. Những khó khăn hậu suy thoái tiếp tục dai dẳng đặc biệt là lạm phát, nợ
công và tăng trưởng kinh tế giảm tốc. Giới đầu tư đang có thêm lý do để thận
trọng về khả năng suy thoái kép.
Kế hoạch giải cứu tài chính lần thứ ba (QE3) đang làm nóng thị trường chứng
khoán Mỹ. Nhiều ý kiến khẳng định sự cấp thiết của nó đối với nền kinh tế Mỹ,
tránh một cú sốc lớn khi QE2 chính thức kết thúc vào ngày 30/06/2011. Thực tế
QE2 đã đem lại được những động lực quan trọng giúp nền kinh tế Mỹ thoát khỏi
suy thoái. Nhờ duy trì được một đồng USD yếu, hoạt động xuất khẩu đã được đẩy
mạnh nhanh chóng và kèm theo đó là sự hồi phục khá mạnh mẽ của thị trường
chứng khoán. Chỉ số Dow Jones tăng 90% từ mức đáy 6.547 điểm, giá cổ phiếu
của các doanh nghiệp niêm yết cũng tăng theo tỷ lệ thuận.

Thực tế, QE2 không tạo động lực thúc đẩy tiêu dùng hay hỗ trợ tăng trưởng mà
còn làm gia tăng lạm phát (3,6%), tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục duy trì ở mức cao
9,1%. Khi đà hồi phục còn chậm chạp như hiện nay, chính phủ Mỹ sẽ khó có thể
kéo tỷ lệ thất nghiệp xuống mức 8% theo kế hoạch. Do đó, nếu gói hỗ trợ QE3
được thông qua khả năng sẽ tiếp tục tạo được hiệu ứng tích cực đến các chỉ số
chứng khoán Mỹ trong ngắn hạn. Tuy nhiên, hai quý còn lại của năm 2011 dường
như là khoảng thời gian quá ngắn để chính phủ Mỹ tháo gỡ được một cách đồng
bộ các vấn đề về lạm phát, thất nghiệp, nợ công và sự im lặng của thị trường bất
động sản.

Nguồn: www.tradingeconomics.com
Giống như Mỹ, tình trạng lạm phát tăng nóng đang mối đe dọa lớn đối với những
nỗ lực tái thiết nền kinh tế của các quốc gia đặc biệt là các quốc gia mới nổi. Mặc
dù tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao nhưng ngay cả Trung Quốc cũng
không tránh được rủi ro bùng nổ lạm phát đang hiện hữu. Trong khi chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tại các nước mới nổi tăng cao có nguồn gốc từ giá thực phẩm tăng
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 3




mạnh (do chiếm tỷ lệ lớn trong rổ tính CPI) thì tại Trung Quốc lại xuất phát từ
lượng vốn đầu tư ồ ạt và hiện tượng các nguồn tài sản có giá bị đầu cơ mạnh đặc
biệt là thị trường bất động sản.
Không chỉ có vậy, nếu QE3 được FED thông qua sẽ làm tình hình lạm phát toàn
cầu trở nên trầm trọng hơn đặc biệt là Trung Quốc. Do đang nắm giữ quá nhiều nợ
của Mỹ và khi đồng USD mất giá mạnh các khoản nợ đương nhiên sẽ sụt giảm giá

trị đồng thời khiến giá hàng hóa định giá bằng USD tăng lên, rủi ro lạm phát sẽ là
không thể tránh khỏi. CPI tại Trung Quốc tháng 6 tăng 6,4%, cao nhất trong 3
năm, và tiếp tục tăng so với mức 5,5% trong tháng 5/2011. Không chỉ có vậy, vấn
đề nợ công tại các địa phương tại Trung Quốc cũng đang tạo nên một mối lo ngại
về khả năng vỡ nợ giống như kịch bản tại Châu Âu. Theo Cơ quan Kiểm toán
Quốc gia Trung Quốc, lượng tiền mà các địa phương đang nợ lên đến 1.650 tỷ
USD, tương đương chiếm hơn 30% GDP. Động thái liên tiếp tăng lãi suất cơ bản
gần đây nhằm kiềm chế lạm phát đã cho thấy những tác động đến tăng trưởng kinh
tế. Theo số liệu vừa công bố, kinh tế Trung Quốc Quý I/2011 tăng trưởng 9,7% so
với cùng kỳ năm trước nhưng sang đến Quý II/2011 tăng trưởng giảm xuống còn
9,5%. Với dấu hiệu tiếp tục tăng của lạm phát, khả năng duy trì tăng trưởng ở mức
trên 10% như năm 2010 sẽ khó đạt được trong năm nay.
Diễn biến hậu suy thoái có phần gay gắt hơn tại khu vực Châu Âu. Các khoản vay
đáo hạn và phải tiến hành tái cấu trúc nợ đang đẩy các quốc gia này sâu hơn vào
cảnh nợ nần. Trong nửa năm đầu 2011, hầu như các nước liên quan đến cuộc
khủng hoảng nợ công đặc biệt là Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha vẫn cần thêm
các khoản vay mới. Riêng khoản nợ hiện tại của ba quốc gia này đã đạt con số kỷ
lục gần 500 tỷ USD. Rủi ro tiếp tục tăng thêm sau quyết định của bộ trưởng tài
chính các nước sử dụng đồng euro chấp thuận giải ngân khoản vay thứ năm (17,3
tỷ USD) cho Hy Lạp. Như vậy với gánh nặng của khoản nợ mới, Hy Lạp sẽ buộc
phải tăng thuế và siết chặt thêm các biện pháp cắt giảm chi tiêu trong đó có cả các
khoản trợ cấp xã hội, lương hưu. Rủi ro đáng lo ngại đó là nguy cơ bùng phát các
vấn đề về ổn định và an sinh xã hội. Vừa qua Moody hạ tới 4 bậc xếp hạng tín
dụng của Bồ Đào Nha khiến thị trường chứng khoán toàn cầu sụt giảm mạnh. Mặc
dù vậy, điểm sáng tại khu vực Châu Âu là hai nền kinh tế chủ chốt gồm Đức, Pháp
vẫn tiếp tục duy trì được tốc độ phục hồi ổn định. Nền kinh tế Đức đã tăng trưởng
1,5% trong Quý I/2011, cao hơn gấp 3 lần so với mức 0,4% trong quý 4/2010 và
tăng tới 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Như vậy tổng quát nền kinh tế khu vực Châu Âu không hoàn toàn xấu tuy nhiên
khủng hoảng nợ công sẽ gây ra những tác động lâu dài đồng thời kìm hãm tốc độ

tăng trưởng toàn khu vực. Đặc biệt các khoản cho vay vừa qua sẽ là gánh nặng lớn
đối với các quốc gia còn lại của khu vực trong đó các chủ nợ chính là Pháp và
Đức. Hoạt động sản xuất tại Eurozone Tháng 6/2011 cho thấy đã tăng trưởng với
tốc độ chậm nhất trong 18 Tháng qua.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 4

Biến động giá Vàng & Dầu thế giới (theo tuần) giai đoạn 2009-2011
Nguồn: www.cx-portal.com
Các xung đột ở Bắc Phi và khu vực Trung Đông và thảm họa sóng thần ở Nhật và
hậu quả của nó đang đe dọa gây ra một cuộc suy thoái kép tại các quốc gia này.
Nhật tiếp tục phải nhập khẩu mạnh sau thảm họa khiến trạng thái thâm hụt thương
mại ngày càng lớn kể từ tháng 4/2011 đến nay. Hiện mức thâm hụt lên đến hơn
10,7 tỷ USD. Tình trạng hỗn loạn và bất ổn tại Trung Đông, nơi cung cấp lượng
dầu lớn toàn cầu đang gây ra những diễn biến bất thường của giá dầu trong Quý
II/2011. Sau khi đạt đỉnh với mức giá gần 115 USD/thùng trong tháng 4/2011,
hiện giá dầu vẫn giao dịch ở mức cao so với cùng kỳ 2009, xung quanh ngưỡng
90-100 USD/thùng. Diễn biến của giá vàng thế giới cũng trong xu hướng tăng liên
tục so với Quý I/2011 và hướng đến mốc 1.600 USD/Ouce thể hiện sự lo ngại của
giới đầu tư vào tương lai phục hồi của nền kinh tế toàn cầu trong nửa năm sắp tới.
Không có nhiều tín hiệu tích cực trong Quý II/2011, các dự đoán tiếp tục cảnh báo
về khó khăn và khả năng chững lại của nền kinh tế thế giới trong nửa năm còn lại
của năm 2011. Thực tế sáu Tháng sẽ là quá ngắn để giải quyết những khó khăn
hiện tại. Lạm phát nóng là dấu hiệu tất yếu của nhu cầu tiêu dùng cùng với chi phí
sản xuất tăng lên sau giai đoạn suy thoái nhưng nó tiểm ẩn rủi ro phá hỏng những
nỗ lực tái thiết kinh tế và kéo theo hệ quả suy thoái kép. Diễn biến trồi sụt của thị
trường chứng khoán quốc tế phần nào thể hiện sự lo ngại và hoài nghi về các cơ
hội đầu tư trong năm 2011.

Biến động các chỉ số chứng khoán thế giới 07/2010-07/2011

Nguồn: www.bloomberg.com
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 5

KINH TẾ VIỆT NAM
Tăng trưởng GDP
Tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm đạt 5,57% so với cùng kỳ năm trước.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6% cho cả năm 2011, tốc độ tăng GDP trong 6
tháng còn lại phải tiệm cận mức 7% để mức bình quân chung cả năm tiến gần tới
mốc này.

Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm (% )
2007
2008
2009
2010
2011
Nông – lâm – thủy sản
2,67
3,04
1,25
3,46
2,08
Công nghiệp – Xây dựng
9,88
7,00

3,48
6,49
6,49
Dịch vụ
8,41
7,60
5,50
7,05
6,12
GDP
7,87
6,50
3,90
6,18
5,57
Tuy nhiên, để đạt được khả năng thực hiện trên không hề đơn giản khi các chính
sách thắt chặt tiền tệ trong 6 tháng đầu năm khiến tổng phương tiện thanh toán chỉ
đạt khoảng 3%, trong khi chỉ tiêu này cho cả năm là 16%, và độ trễ của chính sách
này thường từ 5 đến 6 tháng. Nếu nhìn nhận từ góc độ này, GDP còn có khả năng
sụt giảm trong các tháng còn lại thay vì kỳ vọng tăng lên so với nửa đầu năm. Yếu
tố này cũng được khẳng định thêm thông qua Chỉ số phát triển sản xuất công
nghiệp (IIP) giảm từ 12,6% đầu năm 2011 xuống còn 9% trong tháng 6/2011. Nếu
tổng phương tiện thanh toán trong 6 tháng cuối năm được đẩy mạnh cho đạt mục
tiêu, điều này đồng nghĩa với việc bắt buộc phải gia tăng cung tiền và mâu thuẫn
với mục tiêu kiềm chế lạm phát, vốn đã có gia tốc phi mã như đề cập ở phần dưới
đây. Sự suy giảm tăng trưởng GDP cũng là kết quả tất yếu phát sinh từ sự cắt
giảm đầu tư công trong 6 tháng đầu năm.

- Sản xuất công nghiệp


Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2011 tăng khoảng 9,7% so với cùng
kỳ, trong đó ngành khai thác mỏ tăng 2,8%, công nghiệp chế biến tăng 12,7%, sản
xuất và phân phối điện, gas, nước tăng 10,3% so với cùng kỳ. Giá trị sản xuất
công nghiệp cả nước 6 tháng đầu năm ước đạt 418,47 nghìn tỷ đồng, tăng 14,3%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá trị sản xuất của khu vực kinh tế ngoài nhà
nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao (trên 17%),
cao hơn tốc độ tăng của toàn ngành (14,3%) trong khi khu vực nhà nước là nhân
tố kéo năng lực toàn ngành đi xuống với mức tăng 5,3%.



Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 6

Giá trị sản lượng công nghiệp theo khu vực

Nguồn: GSO, FPTS
Nhìn vào giá trị sản lượng công nghiệp trong biểu đồ trên, có thể thấy giá trị tuyệt
đối giữa các tháng không có nhiều sự biến động, kém hiệu quả nhất là khối doanh
nghiệp nhà nước, giá trị sản xuất của các ngành qua từng tháng gần như không có
sự tăng trưởng. So với tốc độ lạm phát cao, giá trị tuyệt đối của sản xuất công
nghiệp không những không tăng trưởng mà còn có xu hướng thụt lùi do giá tăng.
Tổng số vốn đầu tư khu vực nhà nước ước đạt 141,1 nghìn tỷ đồng, giảm hơn 3%
so với cùng kỳ năm 2010. Tuy nhiên, hiệu quả tạo ra từ khu vực đầu tư nhà nước
vẫn đang ở mức thấp, thông qua hệ số ICOR khu vực nhà nước là 10, con số cao
hơn nhiều so với mặt bằng chung ở các nước trong khu vực.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và tiêu dùng cuối cùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm ước

tính đạt 911,7 tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ 2010, tuy nhiên nếu loại trừ yếu
tố tăng giá, tốc độ tăng chỉ đạt 5,7%. Mức tăng này thấp hơn nhiều so với mức
tăng hơn 16% đã loại trừ yếu tố tăng giá cùng kỳ năm trước. Sự sụt giảm mức bán
lẻ chủ yếu do tác động của lạm phát cao, giá hàng hóa, dịch vụ và cước vận
chuyển hàng hóa từ điểm đầu đến điểm tiêu dùng cuối cùng đều tăng cao.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cuối cùng

Nguồn: GSO, FPTS
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 7

- Vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện trong 6 tháng đầu năm ước đạt
409,7 nghìn tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2010 và bằng 38,3% GDP. Đây
là mức thấp so với mức đóng góp thông thường trong các năm trước với tỷ lệ 60%
GDP. Yếu tố này là yếu tố chính tác động đến kết quả giảm tăng trưởng GDP và
giảm tích lũy trong 6 tháng đầu năm. Khu vực Nhà Nước lần đầu tiên giảm tỷ
trọng với mức 34,4%, đạt thấp hơn so với khu vực ngoài nhà nước 39,8%. Tỷ
trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang dần tăng lên với mức 25%.
Thu hút vốn FDI tích lũy từ đầu năm đến 22/6/2011 chỉ đạt hơn 5,6 tỷ USD, bằng
56,7% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó giảm 49,9% về vốn đăng ký mới và
giảm 30,1% số dự án mới so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, vốn FDI thực
hiện trong 6 tháng đầu năm đạt 5,3 tỷ USD, chỉ giảm 1,9% so với cùng kỳ năm
2010, được coi là điểm sáng trong kết quả tạo ra từ FDI trong thời gian vừa qua.
Khác với năm ngoái, cơ cấu vốn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế
tạo đang được đẩy lên đáng kể với giá trị 3,3 tỷ USD (chiếm 63%). Tỷ trọng này
đang được đẩy lên mạnh trong vòng 2 năm trở lại đây.
Số dự án FDI cấp phép mới lũy kế từ đầu năm


Tổng vốn FDI đăng ký mới lũy kế từ đầu năm

Nguồn: FPTS, GSO
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 8

Một điểm khác hơn so với các năm trước, đó là khoảng cách giữa vốn FDI đăng
ký và vốn FDI thực hiện đang dần dần được thu hẹp. Kết quả này đang thể hiện sự
thận trọng hơn của nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào đầu tư tại Việt Nam,
với việc định hướng kỹ hơn lĩnh vực đầu tư. Bản thân Việt Nam cũng đang từng
bước tiến tới thực hiện các quy trình chọn lọc và đánh giá dự án, tránh tình trạng
vốn đăng ký tràn lan nhưng không thực hiện được, khiến các dự án đó buộc phải
thu hồi lại, gia tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên.

- Vốn hỗ trợ phát triển ODA

Tổng giá trị ODA cam kết trong 5 tháng đầu năm đạt hơn 1,66 tỷ USD, cao hơn
so với nửa đầu năm 2010. Giá trị giải ngân ODA trong 5 tháng đạt 1,26 tỷ USD,
đạt 52,5% kế hoạch giải ngân trong năm 2011. Dự kiến hết tháng 6, giá trị ODA
giải ngân có thể đạt 1,35 tỷ USD, bằng 56,25% kế hoạch.
Mặc dù giá trị giải ngân 6 tháng đầu năm cao hơn so với năm trước, trong bối
cảnh mặt bằng lãi suất cao, việc tận dụng tối đa nguồn lực từ ODA cần phải được
phát huy nhiều hơn. Tuy nhiên, đa phần các dự án đầu tư ODA hiện tại đang có
tiến độ chậm, dẫn tới tốc độ giải ngân vốn ODA chậm. Với lượng cam kết ODA
trong năm 2011 lên đến 8 tỷ USD, giá trị giải ngân thực tế trong thời gian vừa qua
vẫn phản ánh con số rất thấp so với kỳ vọng của các nhà tài trợ cũng như khả
năng thực hiện của Việt Nam.




























Cán cân Thương mại
Xuất khẩu
Trong sáu tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 42,3 tỷ USD, tăng

30,3% so với cùng kỳ năm trước và gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội thông qua
(10%). Trong đó nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng tốc khá nhanh,
đạt gần 23 tỷ USD (kể cả dầu thô), tăng tới 31% so với cùng kỳ năm trước trong khi
khu vực nội địa chỉ đóng góp 19,4 tỷ USD, tăng 29,4%.

Hoạt động xuất khẩu vàng đang gây sự chú ý lớn khi có mức kim ngạch đột biến
trong những tháng cuối Quý II/2011. Ước tính có gần 20 tấn vàng tương đương
1,027 tỷ USD đã được xuất trong nửa đầu năm nay, giúp đưa cán cân thương mại về
trạng thái “bớt căng thẳng“ so với Quý I/2011. Tuy nhiên, nhiều quan điểm cho rằng
chưa thể tính xuất khẩu vàng là hoạt động thường xuyên và ổn định do yếu tố đầu cơ
giữa chênh lệch giá trong nước và thế giới trong khi khả năng kiểm soát hiện tượng
buôn lậu vàng tại Việt Nam vẫn còn kém.

Vẫn hưởng lợi từ yếu tố giá hàng hóa tăng đã thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu trong
nửa đầu năm nay. Ngoài ra, một phần không nhỏ trong lợi thế xuất khẩu của Việt
Nam giúp kim ngạch tăng mạnh đó là sản lượng và năng xuất các mặt hàng mũi
nhọn cũng được duy trì ở mức cao.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 9


























































Nhóm hàng
xuất khẩu
Tăng trưởng so với 6 tháng đầu
Năm 2011 (% )
Sản lượng
Giá
Kim ngạch
Cà phê
29,1
57,3
103,0
Gạo
15,9

-
13,4
Sắn
40,4
33,0
-
Cao su
17,7
-
90,4
Xăng dầu
13,5
38,0
-
Hạt điều
-
42,3
-
Sắt thép
-
19,0
-
Dầu thô
-
41,0
26,2
Dệt may
-
-
28,4

Giy dép
-
-
31,0
Thủy sản
-
-
28,0
Sản phẩm gỗ
-
-
15,4
Máy móc
-
-
18,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong khi nhóm hàng hóa nông sản duy trì được tăng trưởng kim ngạch trong cơ cấu
tổng kim ngạch xuất khẩu so với Quý I/2011 thì nhóm hàng hóa công nghiệp nặng,
tiểu thụ công nghiệp, khoảng sản lại có býớc sụt giảm ðáng kể. Nguyên nhân chính
khiến cõ cấu kim ngạch xuất khẩu có sự thay ðổi ðó là yếu tố lạm phát với lãi suất
và chi phí đầu vào ở mức cao gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của các doanh
nghiệp đặc biệt có liên quan đến nhóm công nghiệp. Nhóm nông lâm sản nhờ nhu
cầu về lương thực, thực phẩm tăng trở lại và sự thiếu hụt nguồn cung toàn cầu đã
tiếp tục có được lợi thế khá thuận lợi, giúp gia tăng tỷ trọng trong cơ cấu xuất khẩu 6
tháng đầu năm.
Cơ cấu Kim ngạch Hàng hóa Xuất khẩu (%)
6 Tháng 2010 so với 6 Tháng 2011

Nguồn: Tổng cục Thống kê, FPTS



Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 10

























































Thị trường xuất khẩu chủ lực trong nửa đầu năm không có nhiều thay đổi. Thương
mại với thị trường Mỹ vẫn duy trì được mức tăng khá. Tuy nhiên trong 6 tháng
2011, thì trường EU cho thấy sự đột biến về tốc độ tăng trưởng, tăng tới 49% so
với cùng thời điểm năm ngoái. Nhu cầu tiêu thụ các loại nông sản, đặc biệt là
nguyên liệu thô tăng trở lại sau cuộc khủng hoảng nợ đã khiến khu vực này lỡ nhịp
so với tốc độ hồi phục của thế giới. Với tốc độ tăng trưởng này khả năng khu vực
EU sẽ sớm vượt qua thị trường Mỹ trong 6 tháng còn lại.

Mặc dù nhu cầu tái thiết và đẩy mạnh nhập khẩu cao tuy nhiên thị phần xuất khẩu
sang Nhật dường như còn chậm so với mức tăng trưởng rất nhanh lên tới 56,6%
của thị trường Trung Quốc. Diễn biến gần đây cho thấy các hoạt động nhập khẩu
hàng Việt Nam từ phía Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng. Từ các sản phẩm
nông sản, lương thực đến các sản phẩm thủy hải sản cũng đang được phía Trung
Quốc thu gom với mức giá cao khiến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này
tăng mạnh. Kim ngạch tăng phần nào giảm bớt gánh nặng thâm hụt thương mại
đối với thị trường Trung Quốc tuy nhiên để xoay chuyển sang xuất siêu trong ngắn
hạn là điều không thể.

Kim ngạch
XK (Tỷ USD)
Tỷ trọng trong Tổng
kim ngạch XK (% )
Tăng trưởng cùng
kỳ QII/2010
Mỹ
7,6
18
21,3
EU

7,4
17,5
49,1
ASEAN
6,1
14,4
16,6
Nhật
4,6
10,9
32,4
Trung Quốc
4,5
10,6
56,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê, FPTS
Nhập khẩu
Những nỗ lực hạn chế nhập khẩu của Chính phủ đã đem lại tín hiệu mới trong quá
trình kiềm chế nhập siêu. Kim ngạch nhập khẩu trong Tháng 6/2011 đã có dấu
hiệu giảm (-5,2%) so với tháng trước đạt 8,2 tỷ USD. Tuy nhiên sau sáu tháng đầu
năm, kim ngạch nhập khẩu vẫn tiếp tục tăng 25,8% so với cùng kỳ năm 2010, đạt
49 tỷ USD.

Một điểm đáng chú ý đó là khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang
có mức tăng trưởng nhập khẩu rất nhanh, tới 29,7% so với cùng kỳ năm ngoái
trong khi khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt mức tăng trưởng 22,9%. Đây là tín
hiệu đáng lo ngại đối với các cơ quan quản lý khi gần đây nhóm doanh nghiệp
nước ngoài đang tận dụng lợi thế hưởng ưu đãi trong nhập khẩu để đưa các sản
phẩm hoàn thiện thay vì nhập linh kiện vào Việt Nam. Tuy nhiên, xét về tổng kim
ngạch nhập khẩu sáu tháng đầu năm thì khu vực kinh tế trong nước vẫn cao hơn

nhóm nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 28 tỷ USD so với mức 22 tỷ USD.





Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 11

























































Trong khi xuất khẩu được hưởng lợi về giá thì trái lại nhập khẩu phải chịu những
tác động tiêu cực. Nhìn vào danh mục hàng hóa nhập khẩu chính có thể thấy các
nguyên liệu đầu vào chiếm tỷ trong rất cao và hầu như đều có mức tăng giá nhanh
và mạnh.

Nhóm hàng Nhập khẩu
Tăng trưởng so với cùng
kỳ Qúy II/2010 (% )
Giá
Kim ngạch
Bông
106,8
-
Xăng dầu
43,8
67,6
Sợi dệt
38,5
20,8
Lúa mì
40,6
-
Gas
21,6
-

Chất dẻo
18,8
31,5
Máy móc
-
10,9
Vải
-
38,1
Sắt thép
-
7,0
Máy tính
-
23,2
Hóa chất
-
34,8
Ô tô nguyên chiếc
-
45,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê, FPTS
Trong khi chủ trương duy trì hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không phục vụ hoạt
động sản xuất nhưng tỷ trọng nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng trong sáu tháng đầu
năm vẫn tiếp tục tăng lên 8,2% trong khi cùng kỳ năm ngoái chỉ ở mức 7,2%.
Nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiểm tỷ trọng cao ở mức 91,3% tuy nhiên so với cùng
kỳ năm trước nhóm này đang có dấu hiệu suy giảm từ mức 92,2% xuống 91,3%.
Hiện tượng này phản ánh rõ nhu cầu rất cao của người tiêu dùng trong nước đối
với sản phẩm nhập khẩu trong khi các doanh nghiệp trong nước bắt đầu có dấu
hiện gặp khó khăn khi nhập khẩu nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất.


Thị trường nhập khẩu vẫn tiếp tục bị chi phối từ phía nhà cung cấp Trung Quốc.
Kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tiếp tục tăng mạnh tới 20,5% so với cùng
kỳ năm ngoái, đạt 11 tỷ USD. Nếu so sánh với tỷ trọng của các thị trường nhập
khẩu trọng yếu khác có thể thấy được sự chênh lệch lớn và mức phụ thuộc đáng lo
ngại của nguồn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam. Cụ thể thị trường
nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam là khối ASEAN chỉ đạt 10,3 tỷ USD, tiếp
theo là Hàn Quốc với 5,9 tỷ USD và Nhật Bản chỉ có 4,5 tỷ USD.







Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 12

























































Dự báo Cán cân Thương mại Quý II/2010

Hoạt động tái xuất vàng tăng mạnh trong một số tháng gần đây, tạo ra ảnh hưởng
không nhỏ đối với trạng thái nhập siêu của Việt Nam. Nếu trừ đi yếu tố này, nhập
siêu nửa đầu năm ước tính lên mức 7,5 tỷ USD, tương đương 18,1% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Trong khi nếu có thêm xuất khẩu vàng, kim ngạch nhập siêu sẽ
giảm được đáng kể, chỉ còn 6,65 tỷ, tương đương 15,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu, dưới mức chỉ tiêu theo Nghị quyết số 11/NQ-CP đề ra trong năm nay là
không quá 16%.

Rõ ràng dù có tính đến ảnh hưởng của xuất nhập khẩu vàng hay không thì chỉ tiêu
năm nay đang đứng trước nguy cơ khó hoàn thành. So với cơ cấu về xuất nhập
khẩu trong Quý II/2011 vẫn chưa thấy được sự khác biệt có tính đột phá nào để
thay đổi được tình trạng nhập siêu đang ngày một tăng. Yếu tố giá hàng hóa tăng
mặc dù hỗ trợ nhiều trong việc đẩy mạnh kim ngạch nhưng cũng vì thế mà kim
ngạch hàng hóa nhập khẩu (chủ yếu là nguyên liệu phục vụ xuất khẩu) cũng tăng

vọt.

Hơn thế nữa, các nhóm hàng hóa xuất khẩu chủ lực là hàng nông sản thô, thủy sản
chỉ qua sơ chế giá trị kim ngạch không lớn nhưng đang ở các ngưỡng về sản
lượng. Do đó, để tiếp tục đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu bù cho nhập khẩu trong
sáu tháng cuối năm sẽ là rât khó nếu chỉ trông chờ vào giá.

Hạn chế nhập khẩu cũng không phải là chọn lựa hợp lý khi trên 90% tổng cơ cấu
nhập khẩu là nhóm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Trong khi đó để giảm nhập
khẩu thì nội lực sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được và để giải quyết vấn đề
này phải cần các chính sách hỗ trợ tích cực và thời gian đủ để phát triển bền vững.

Do đó dự báo trong Quý III/2011 sẽ có thể nhìn thấy những thay đổi cơ bản trong
cơ cấu hàng hóa nhập khẩu khi chính sách hạn chế nhập các mặt hàng tiêu dùng
bắt đầu cho thấy hiệu quả rõ rệt hơn. Tuy nhiên với năng suất và sản lượng cũng
như mức giá hàng xuất khẩu đã đạt ở mức cao thì khó có thể kỳ vọng vào sự đột
phá mạnh mẽ về cán cân thương mại trong Quý III/2011. Như vậy, tương tự nhu
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 13

























































chỉ tiêu CPI đã được điều chỉnh tăng chỉ tiêu 2%, có nhiều khả năng chỉ tiêu nhập
siêu cho năm 2011 sẽ cần có những điều chỉnh để phù hợp với thực lực và nhu cầu
phát triển của nền kinh tế.
Chỉ số giá tiêu dùng - CPI
CPI tháng 6 đánh dấu tháng thứ 3 liên tiếp đà tăng được kiềm chế chậm lại, và là
tháng có mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm với tỷ lệ 1,09% so với tháng trước.
Nhìn vào đồ thị dưới đây, có thể thấy mức độ tăng CPI hàng tháng bắt đầu trờ nên
mạnh mẽ kể từ tháng 9 năm 2010 và duy trì mức tăng cao liên tục cho đến hiện
tại. Mức độ tăng của tháng 6 tuy thấp nhất kể từ đầu năm, nhưng vẫn ở mức độ
cao so với tốc độ tăng bình quân tháng của các năm trước đó.

CPI theo tháng (MoM) và theo cùng kỳ năm trước (YoY)

Nguồn: GSO, FPTS


Có thể thấy, chính đà tăng mạnh từ quý 4 năm 2010 là hệ quả dẫn tới xu hướng
tăng YoY của CPI vẫn đang tiếp tục và đạt mức cao nhất trong vòng 27 tháng qua,
mặc dù đà tăng đã được chặn lại đáng kể trong hai tháng trở lại đây. Với tốc độ
tăng đột biến từ tháng 9, bất kể từ tháng 7 đến tháng 9 năm nay, đà tăng CPI được
duy trì giao động xung quanh mức tăng của tháng 6, chỉ số giá theo YoY sẽ vẫn
tiếp tục xu thế tăng và đảo chiều giảm từ tháng 10 nếu CPI thời gian tới đây có sự
cải thiện tốt. Các yếu tố kiểm soát lạm phát như kiềm chế tốc độ tăng cung tiền
M2, cắt giảm đầu tư công không hiệu quả đang được tiến hành khá chặt chẽ, tuy
nhiên, chúng tôi đánh giá việc tăng CPI hiện tại chủ yếu do ảnh hưởng độ trễ của
việc mở rộng tổng phương tiện thanh toán trong các năm trước. Cụ thể, trong các
năm từ 2006 đến cuối 2010, tổng phương tiện thanh toán M2 luôn tăng từ 20%
đến 43%, cho dù 6 tháng đầu năm nay tốc độ tăng M2 chỉ tăng 2,33% thì hệ quả
của cả một quá trình mở rộng trước đó đang phản ánh trực tiếp vào tốc độ tăng
CPI thời gian vừa qua.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 14


























































Trong trạng thái khó khăn của nền kinh tế hiện tại, động lực tăng giá của CPI chủ
yếu được tạo ra từ chi phí đẩy, giá đầu vào từ lĩnh vực sản xuất tăng cao, trong khi
dòng tiền và nhu cầu về hàng hóa vẫn chưa được đẩy lên. Yếu tố này chịu tác
động từ sự gia tăng giá hàng hóa nhập khẩu, lãi suất cho vay cao và bản thân
nguồn hàng hóa cho sản xuất trong nước cũng trở nên co hẹp do sự đi xuống của
kinh tế chung toàn cầu. Để khắc phục được yếu tố này cần phải có một khoảng
thời gian đủ dài để cung cầu về hàng hóa dần được điều chỉnh lại khi kinh tế thế
giới bước trở lại xu thế tăng trưởng, và khó khăn cho kiểm soát CPI trong thời
gian tới nhằm đạt được mục tiêu đề ra là điều không dễ dàng.

Tốc độ tăng CPI lũy kế từ đầu năm

Nguồn: GSO, FPTS

Nếu nhìn vào gia tốc tăng CPI so với thời điểm đầu năm, thay vì trạng thái duy trì

ổn định trong 6 tháng đầu năm 2010, 6 tháng đầu năm nay đang thể hiện một gia
tốc tăng phi mã với đồ thị thẳng đứng và tạo khoảng cách rất lớn so với đồ thị
cùng thời điểm năm trước. Gia tốc này được tạo ra bởi cột khối lượng lớn và dày
đặc kéo dài suốt từ tháng 9 năm ngoái. Tốc độ đó cũng tạo ra từ sự tăng cao chỉ số
giá các mặt hàng nông lâm thủy sản (27,57%), chỉ số giá nguyên nhiên liệu dùng
cho sản xuất (tăng 18,32%). Chỉ tính riêng đến nửa đầu năm nay, tốc độ tăng so
với đầu năm đã vượt so với tốc độ tăng cả năm 2010, ở mức 13,29%. Với mục
tiêu tăng CPI cả năm đạt tối đa 17%, giới hạn còn lại cho đà tăng CPI 6 tháng cuối
năm chỉ còn khoảng 3,71%, tương đương mức tăng bình quân hàng tháng đạt
0,6%. Đây thực sự là mức bình quân mục tiêu không hề dễ dàng cho Việt Nam
trong bối cảnh 6 tháng cuối năm thường lạm phát quay trở lại xu hướng tăng do
yếu tố mùa vụ, mức tăng lạm phát vẫn cao dù thời gian thắt chặt tiền tệ đã kéo dài
và mặt bằng lãi suất cho vay vẫn quá cao so với năng lực sản xuất của doanh
nghiệp.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 15


























































Thị trường tài chính
Khó khăn về tín dụng vẫn tiếp diễn khi NHNN quyết tâm giảm tỉ lệ dự nợ cho vay
bất động sản xuống dưới mức 22% vào thời điểm 30/6/2011 và có lộ trình giảm
xuống mức 16% vào 31/12/2011. Đây là một trong những chính sách được thực
thi khá quyết liệt nhằm giảm tỉ lệ vốn tín dụng từ ngân hàng chảy mạnh vào thị
trường bất động sản, vốn được xem là phát triển quá nóng trong vài năm gần đây.
Ước tính, dư nợ từ thị trường bất động sản vào cuối năm 2010 vào khoảng 224
nghìn tỉ VND, tăng khoảng 22% so với cuối năm 2009. Riêng tại hai thành phố
lớn là HCM và HN thì tỉ trọng dư nợ bất động sản đặc biệt cao, chiếm lần lượt
47% và 16%. Tại thời điểm cuối cùng vào 30/6/2011, mặc dù vẫn còn một số ngân
hàn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhưng tỉ lệ dư nợ cho vay phí sản xuất đã giảm
được khoảng 9,5% chiếm tỉ trọng khoảng 17% tổng dư nợ. Tuy nhiên, trong cơ
cấu dư nợ phi sản xuất bao gồm cho vay bất động sản (chiếm tỉ trọng lớn nhất),
cho vay chứng khoán, cho vay tiêu dùng thì dư nợ cho vay kinh doanh bất động
sản có mức giảm khá thấp chỉ khoảng 5,5%.Trong khi đó, cho vay lĩnh vực sản
xuất vẫn có mức tăng trưởng khoảng 11%, đảm bảo không gián đoạn các hoạt

động sản xuất chính của nền kinh tế.


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - SBV

Vẫn theo lộ trình này, thì trong nửa cuối năm 2011, dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản
xuất sẽ tiếp tục bị ép giảm xuống còn 16%. Tức là vào khoảng 2 nghìn tỉ nữa, nếu
tính theo tổng dư nợ hiện nay. Đây không phải là áp lực quá lớn đến khối kinh
doanh phi sản xuất, trong khi hạn mức tăng trưởng tín dụng trong nửa cuối năm
vẫn còn khá nhiều.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 16


























































Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - SBV
Trong cả quý II/2011, mức độ tăng trưởng tín dụng đã giảm đáng kể so với cùng
kì năm ngoái; đồng thời, tính đến cuối tháng 6/2011, ước tính tín dụng của cả nền
kinh tế đạt mức tăng khoảng 7% so với cuối năm 2010, trong khi chỉ tiêu đặt ra là
dưới 20%. Mức tăng trưởng này khá thấp, phản ánh rõ quyết tâm và hiệu quả của
các chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát cao. Tuy nhiên, với mức lãi
suất cho vay phổ biến trong quý II/2011 vào khoảng 20-22% thì đây vẫn là mức
khá cao so với mức chịu đựng của Doanh nghiệp. Thực tế, tăng trưởng tín dụng
của VND chỉ đạt mức 2,72%, trong khi của đồng USD là 22,21%. Mức chênh lệch
về tăng trưởng lớn như vậy chủ yếu là do chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền, lên
đến khoảng 15%. Như vậy, nếu đồng VND có mất giá đi chăng nữa (mức phá giá
lớn nhất từ đầu năm là 9,3%) thì doanh nghiệp vẫn có lợi hơn là đi vay tiền đồng.
Đồng thời, trong khi tăng trưởng của nền kinh tế vẫn đạt mức trên 5% trong nửa
đầu năm 2011, và tăng trưởng tín dụng nội tệ chỉ đạt mức thấp hơn 3%, đây là một
hiện tượng đặc biệt bởi trong rất nhiều năm, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
thường đi kèm với nới rộng tăng trưởng tín dụng và chính sách tiền tệ. Không loại
trừ khả năng trong nửa năm 2011, đặc biệt là từ đầu quý II, các DN đã chuyển
sang vay USD rồi bán lại cho ngân hàng lấy tiền VND để đáp ứng nhu cầu vốn.
Nếu tăng trưởng tín dụng ngoại tệ tiếp tục tăng cao trong bối cảnh duy trì kiểm
soát chặt tín dụng nội tệ thì nhiều khả năng sẽ gây áp lực rất lớn lên tỉ giá vào nửa

cuối năm khi mà các khoản vay ngoại tệ đến hạn.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 17


























































Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - SBV
Như vậy, có thể thấy, chính sách tiền tệ thắt chặt đã phần nào phát huy tác dụng
trong nửa đầu năm mà đặc biệt là trong quý 2 này. Đặc biệt là vấn đề tỷ giá và
thanh khoản trong hệ thống ngân hàng khá ổn định. Tuy nhiên, cũng cần phải chú
ý rằng, nếu kéo dài các chính sách thắt chặt lâu hơn nữa mà không đạt được mục
tiêu kiềm chế lạm phát thì sẽ có thể kéo theo một số hệ lụy như ảnh hưởng đến
năng lực sản xuất của toàn xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ khó có thể đạt
được như mục tiêu đặt ra.












Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 18

























































THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Thị trường chứng khoán quý II/2011
Đầu tháng 4, thị trường giao dịch trầm lắng khối lượng giao dịch sụt giảm đáng
kể, toàn thị trường không có nhóm cổ phiếu dẫn dắt do tác động bởi thông tin về
kết quả kinh doanh năm 2010 không mấy sáng sủa, đặc biệt là các công ty chứng
khoán. Trong số 87 CTCK công bố kết quả kinh doanh năm 2010, có 24 công ty
công bố lỗ với tổng số lỗ lên tới 574 tỷ đồng, đứng đầu là KLS lỗ 173 tỷ đồng đã
ảnh hưởng tiêu cực đến diễn biến của VN-Index, HNX-Index
Cuối tháng 4 đầu tháng 5, trong khi VN-Index tăng do được hỗ trợ bởi nhóm cổ

phiếu Bluechips đặc biệt là BVH, MSN… thì chỉ số HNX-Index đi ngang do
không có nhóm cổ phiếu dẫn dắt. Tại thời điểm này, VN-Index không phản ánh xu
thế chung của hầu hết các mã cố phiếu chỉ tiêu biểu cho vận động của một vài mã
cổ phiếu vốn hóa lớn. HNX-Index tiếp tục là điển hình cho xu thế chung của các
cổ phiếu niêm yết trên cả hai sàn.
Giữa tháng 5 đến đầu tháng 6, cả hai chỉ số VN-Index và HNX-Index giảm mạnh.
Khởi đầu cho quá trình giảm điểm mạnh là phiên giao dịch 12/5 với hành động
bán ròng 94 tỷ bất ngờ của khối ngoại sau nhiều phiên liên tiếp mua ròng, kết hợp
với thông tin bác bỏ đề xuất của Bộ Tài chính về miễn thuế thu nhập chứng khoán
năm 2011 của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội.
Trong các phiên tiếp theo, hầu hết các cổ phiếu trên cả hai sàn đều giảm mạnh,
thậm chí có những phiên gần như giảm sàn hàng loạt. Ở thời gian này bức tranh
xấu về tín dụng của các công ty chứng khoán dần được hé lộ. Theo báo cáo 2010
của 10 công ty chứng khoán có thị phần môi giới lớn nhất, có tới hơn 4.100 tỷ
đồng cung cấp tín dụng cho khách hàng trong bối cảnh thị trường chứng khoán sụt
giảm mạnh, thanh khoản thấp, lãi suất tăng cao. Do vậy rủi ro thu hồi vốn của các
công ty chứng khoán khá cao điều này đã tác động xấu đến thị trường đặc biệt là
nhóm cổ phiếu chứng khoán. Cũng trong thời gian này, áp lực giải chấp cao, lực
bán mạnh, thanh khoản sụt giảm cả hai chỉ số VN-Index và HNX-Index đều thiết
lập đáy mới thấp hơn đáy cũ.
Vào phiên giao dịch 26/5, cả hai chỉ số bắt đầu chuỗi phục hồi mạnh do dòng tiền
đầu cơ tham gia vào thị trường khá tốt khi nhận thấy giá cổ phiếu đã đủ rẻ để tạo
ra lợi nhuận đột biến trong ngắn hạn. Hầu hết các mã cổ phiếu đồng loạt tăng trần
trong thời gian này.
Đầu tháng 6, thị trường bắt đầu bước vào thời kỳ giảm điểm cho đến hết quý do
không có dòng tiền mới tham gia dẫn dắt thị trường dưới áp lực của việc thắt chặt
tín dụng vào lĩnh vực phi sản suất, đặc biệt là chứng khoán của chính phủ. Thời
gian này thị trường dao dịch cầm chừng, khối lượng sụt giảm đáng kể.



Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 19










































Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài:

Với kịch bản khá giống với quý 1, khối đầu tư ngoại vẫn tiếp tục giữ cho thị
trường không giảm sâu thông qua việc sử dụng một số các cổ phiếu vốn hóa lớn.
Trong đó VNM, KDC, FPT,CTG, VCB,HAG, BVH, HPG,PVF, PVS là 10 mã giá
trị mua ròng của khối nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất quý 2, với tổng giá trị mua
ròng lên tới gần 2 nghìn tỷ đồng.
Khối đầu tư ngoại bán ròng mạnh nhất ở VIC, CTD, STB, VSH, SAM, TDH,
PVT, PNJ, LCG, KBC với giá trị bán ròng lên tới hơn 760 tỷ đồng. Trong cả quý
2 khối đầu tư ngoại mua ròng khoảng hơn 1.700 tỷ đồng.
Thống kê lợi nhuận:
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không thuận lợi, thị trường chứng khoán giao dịch
ảm đạm cầm chừng thì các công ty chứng khoán, quản lý quỹ là những doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Cụ thể cho đến thời điểm hiện tại
đã có 61/105 công ty chứng khoán có lỗ lũy kế. Trong sáu tháng đầu năm đã có

27/47 công ty quản lý quỹ công bố lỗ.
Ngoài các công ty chứng khoán và quản lý quỹ thì các doanh nghiệp xây dựng
cũng có khả năng thua lỗ cao trong quý hai do chi phí đầu vào tăng, đặc biệt là chi
phí lãi vay.
Các doanh nghiệp sản xuất nhìn chung cũng gặp nhiều khó khăn do lãi suất tăng
cao, lạm phát tăng do đó chi phí đầu vào cũng tăng.
Phân tích kỹ thuật
HSX:
Xu thế:
Đầu tháng 7, VN-Index tiếp tục vận động trong kênh giảm dài hạn hình thành từ
đầu năm 2011, do bị ảnh hưởng bởi các chính sách tiên tệ thắt chặt nhằm kiềm chế
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 20

lạm phát của chính phủ và dự báo kết quả kinh doanh không mấy khả quan của
các doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.
Do đó, mặc dù đã giảm khá nhiều, nhưng thị trường vẫn chưa thực sự hấp dẫn
được dòng tiền.
Về phương diện kỹ thuật, quá trình giảm từ 450 xuống 410 là sự hoàn bù cho đợt
tăng từ 385 đến 450, quá trình này đã hoàn tất kể cả về thời gian lẫn giá trị hoàn.
Hiện tại VN-Index đang được đỡ mạnh bởi kênh giữa của kênh giảm trung hạn tại
vùng 400-410. Hai dải Bollinger bands đang hướng xuống, ủng hộ cho xu thế
giảm nhẹ trong ngắn hạn trước khi hình thành xu thế mới. Ba đường MA 14,20,50
trở thành gánh nặng cho nỗ lực tăng giá của VN-Index tại vùng 420-435.
Trong ngắn hạn, mô hình hai đáy đang chi phối khá mạnh vận động của VN-Index
, thời điểm này là thời điểm đang hình thành đáy thứ 2 tại vùng 480-410, kết hợp
với các chỉ báo RSI, MFI đang tiến dần về vùng quá bán, đường MACD đã cắt
đường tín hiệu từ trên xuống ở dưới đường 0 nên khả năng tăng giá trong ngắn hạn

thấp. Kết hợp các yếu tố trên chúng tôi kỳ vọng vào sự quay trở lại test vùng hỗ
trợ mạnh 380-390 trước khi chuyển sang một xu thế mới.
Với triển vọng không mấy sáng sủa về kết quả kinh doanh quý 2 của doanh nghiệp
niêm yết. Tình hình kinh tế vĩ mô dự kiến cũng không có những chuyển biến tích
cực đột biến, đặc biệt là các chính sách về tín dụng đầu tư vào lĩnh vực phi sản xuất
tiếp tục bị hạn chế. Do đó khả năng tăng mạnh của VN-Idnex trong quý 3 xảy ra rất
ít, các sóng tăng trong qúy 3 chỉ có thể là các sóng nhỏ và mang tính chất hoàn bù
cho quá trình giảm trước đó. Xu thế đi ngang có thể vẫn là chủ đạo cho cả quý.
Ngưỡng kháng cự, ngưỡng hỗ trợ cho quý 2:
Các ngưỡng kháng cự và hỗ trợ đưa ra dựa trên các kênh xu thế đang thực
hiện, các đường MA, Fibonacci, Standard Deviation Channel….
Ngưỡng hỗ trợ:
Vùng hỗ trợ mềm: Fibonacci 61.8 cho đợt tăng từ 385 lên 450 tại mức 410
Vùng hỗ trợ cơ bản: sự kết hợp bởi Fibonacci 61.8 cho đợt tăng từ 235 lên 630 và
ngưỡng hỗ trợ tâm lý 400 tại vùng 390-400
Ngưỡng hỗ trợ sâu: Sự kết hợp của kênh dưới kênh hồi quy dài hạn và trung hạn
tại vùng 370-380
Ngưỡng kháng cự:
Vùng kháng cự mềm: Sự kết hợp của MA14,MA20,MA50 kênh giữa của kênh
hồi quy dài hạn tại vùng 430-440
Vùng kháng cự cơ bản: hệ các đỉnh cũ dao động quanh vùng 450
Vùng kháng cự mạnh: Sự kết hợp của kênh trên của kênh hồi quy trung và dài hạn
tại vùng 480-500.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 21

Mô hình cảnh báo:
Mô hình hai đáy: Mô hình hai đáy đang tác động khá mạnh vào vận động của VN-

Index. Theo mô hình này, vào thời điểm nửa cuối tháng 7 là khoảng thời gian hình
thành đáy thứ 2 tại vùng 380-400. Sau khi hoàn tất đáy thứ 2, VN-Index có thể sẽ
đảo chiều tăng điểm để quay trở lại test vùng kháng cự 435-440( Fibonacci 61.8
cho đợt giảm từ 450-390). Các diễn biến tiếp theo sau khi mô hình này hoàn tất sẽ
phụ thuộc khá nhiều vào tình hình vĩ mô tại thời điểm đó.
Các kịch bản cho VN-Index trong quý 3:
Kịch bản 1: Giảm- tăng hoàn bù- đi ngang
Về dòng tiền:Theo kịch bản 1, VN-Index sẽ hoàn tất đáy thứ 2 vào cuối tháng 7 ở
vùng 380-400, rồi quay đầu tăng giá. Giá trị hoàn bù tối đa sẽ đạt được là
Fibonacci 61.8 cho đợt giảm từ 450 xuống 380 vào khoảng 430-440. Sau đó, VN-
Index sẽ đi ngang trong vùng 420-450. Kịch bản này khá phù hợp với bối cảnh
hiện tại khi mà dòng tiền tham gia vào thị trường chủ yếu là dòng tiền đầu cơ
không bền vững, có thể rút ra rất nhanh khỏi thị trường. VN-Index sẽ chỉ tăng
điểm khi đã giảm mạnh, chỉ tăng do hoàn bù chứ không tạo nên sóng mới, do đó
đỉnh sau thông thường thấp hơn đỉnh trước. Sau một đợt tăng như vậy thì thị
trường sẽ đi ngang để thăm dò tình hình vĩ mô.
Về phương diện kỹ thuật : Theo kịch bản này, VN-Index sẽ hoàn tất đáy thứ 2
của mô hình hai đáy, sau đó tăng điểm để hoàn bù cho quá trình giảm trước đó và
sẽ gặp thất bại khi đối diện với Fibonacci 61.8, rồi lình xình đi ngang trong biên
độ khá hẹp 420-450 để tiếp tục chờ đợi các chuyển biến vĩ mô.
Kịch bản 2: Giảm – tăng hoàn bù- tăng tiếp:
Về dòng tiền: Theo kịch bản này thì khi lực bán đã cạn kiệt tại vùng 380-400, Vn-
Index sẽ quay đầu tăng điểm do dòng tiền đầu cơ tham gia vào thị trường, tiếp
theo Vn-Index lại được hỗ trợ bởi dòng tiền mới tham gia vào thị trường do nhận
thấy giá cổ phiếu đã ở mức khá hấp dẫn.
Về phương diện kỹ thuật: Theo kịch bản này, sau khi hoàn tất đáy thứ hai của
mô hình hai đáy vào cuối tháng 7 ở vùng 380-400 , VN-Index bật ngược trở lại và
liên tiếp chinh phục thành công các ngưỡng kháng cự tạo bởi MA 14, MA20,
MA50, hệ các đỉnh cũ nhưng cuối cùng sẽ gặp thất bại khi gặp kênh trên của kênh
hồi quy dài hạn tại vùng 495-500 điểm. Do đó đỉnh cao nhất của quý 3 có thể đạt

được của VN-Index là 500 điểm.
Kịch bản 3: Giảm -tăng hoàn bù- giảm:
Về dòng tiền: Theo kịch bản này thì dòng tiền đầu cơ sẽ tham gia bắt đáy mạnh
khi Vn-Index tạo đáy thứ 2 tại vùng 380-400, VN-Index sẽ quay đầu tăng điểm.
Tuy nhiên dòng tiền đầu cơ là dòng tiền nóng và sẽ thực hiện chốt lời rất sớm. Do
đó, khi dòng tiền đầu cơ rút ra khỏi thị trường thì VN-Index sẽ lại giảm mạnh do
niềm tin của giới đầu tư vào sự tăng giá của VN-Index không còn.
Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 22

Về phương diện kỹ thuật:Theo kịch bản này, sau khi hoàn thành đáy thứ 2 của
mô hình hai đáy tại vùng 380-400, VN-Index quay đầu tăng giá và gặp thất bại khi
chinh phục Fibonacci 61.8 tại vùng 435-440. Sau đó quay đầu giảm điểm và đuợc
đỡ mạnh bởi sự kết hợp của hai kênh dưới của kênh hồi quy trung và dài hạn tại
vùng 350-370.
Tóm lại:
Kết hợp các ngưỡng kháng cự, hỗ trợ, các mô hình và các kịch bản thì vận động
của VN-Index trong quý 3 sẽ nằm trong khoảng 350-500.

Ở thời điểm hiện tại, HNX-Index đang vận động trong kênh giảm dài hạn hình
thành từ đầu năm 2011 và đang được đỡ mạnh bởi kênh dưới của kênh hồi quy dài
hạn tại vùng và đáy cũ tại vùng 60-65. Các đường MA14,20,50 tiếp tục hướng
xuống tạo nên áp lực lớn cho sự tăng giá của HN-Index. Khối lượng giao dịch sụt
giảm đáng kể tại sàn HNX. Mô hình hai đáy có vẻ đang chi phối vận động của
HNX-Index với đáy thứ 2 trong vùng 60-65. Kết hợp các kênh hồi quy trung và
dài hạn thì vận động của HNX-Index trong quý 3 sẽ trong vùng 55-100.





Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 23


Kết luận:
Với kỳ vọng vào sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế nói chung và thị
trường chứng khoán nói riêng trong quý 3 không nhiều. Theo quan điểm của
chúng tôi, dao động đi ngang xen kẽ các đợt tăng, giảm nhẹ sẽ là chủ đạo
trong cả quý. Khoảng điểm dao động cho hai chỉ số lần lượt là: VN-Index:
350-500; HNX-Index: 55-100.











Báo cáo thị trường Quý II/2011
ơ

 2011 Công ty Cổ phần Chứng Khoán FPT Trang 24




PHỤ LỤC
Bảng 1: Thống kê quy mô toàn thị trường năm 2010,2011.


31/12/2010
30/6/2011
Vốn hóa thị trường ('000.000)

722.637
654.652
Tỉ trọng vốn hóa thị trường / GDP (%)

44.00%
33%
Số lượng các DN niêm yết HO

275
288
Số lượng các DN niêm yết HA

367
384
Số lượng các DN niêm yết Upcom

109
127
Số lượng công ty chứng khoán hoạt động


105
102
Số lượng tài khoản chứng khoán, trong đó

N/A
N/A
Cá nhân

N/A
N/A
Tổ chức

N/A
N/A
Nước ngoài

14.731
N/A

Bảng 2: Thống kê quy mô giao dịch sàn HO

Bình quân
Tổng cộng
Khối lượng (CK)
Giá trị (tỉ VND)
Khối lượng (CK)
Giá trị (tỉ VND)
Quý 1
31.518.002
754

2.017.152.113
48.302
Quý 2
27.829.907
552
1.753.284.120
34.800

Bảng 3: Thống kê quy mô giao dịch sàn HA

Bình quân
Tổng cộng
Khối lượng (CK)
Giá trị (tỉ VND)
Khối
llluongluonglu
olượng (CK)
Giá trị (tỉ
VND)
Quý 1
26.604.131
436
1.702.664.396
27.896

Quý 2
31.223.379
382
1.967.072.847
24.062











×