Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Giới tính và từ xưng hô trong Hát phường vải Nghệ Tĩnh" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.83 KB, 10 trang )




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


23
Giới tính và từ xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh

Nguyễn Thị Mai Hoa
(a)


Tóm tắt. Ví phờng vải là một trong những thể loại hát dân ca độc đáo trong
kho tàng dân ca ở Nghệ Tĩnh. Trong lời những bài hát này có các đại từ nhân xng
chỉ vai hát là nam và nữ. Lớp từ này đậm màu sắc giới tính và có sự khác biệt khi
hành chức. Bài viết đi sâu phân tích những sự khác biệt này.

rong thời gian gần đây, việc
nghiên cứu ngôn ngữ xét từ góc
độ giới tính (GT) trong phạm vi giao
tiếp gia đình, họ tộc và giao tiếp xã hội,
đặc biệt là quan hệ giữa giới tính (GT)
và ngôi giao tiếp thể hiện ở từ xng hô
(TXH) đã đợc nhiều nhà ngôn ngữ học
quan tâm (xem [5, 7, 10]). Tuy nhiên,
hầu hết các tác giả nói trên chủ yếu tập
trung xem xét GT và TXH trong giao
tiếp nói chung chứ cha đề cập sâu tới
vấn đề ngôn ngữ GT và TXH trong một
thể hát ví dân gian gắn với một phơng


ngữ cụ thể. Trong bài viết này, chúng
tôi sẽ đề cập đặc điểm ngôn ngữ GT
thông qua cách sử dụng TXH của các
vai giao tiếp trong các lời hát đối đáp ở
phạm vi cụ thể là hát phờng vải Nghệ
Tĩnh (HPV NT).
I. Sơ lợc về từ xng hô
Xng hô là hoạt động diễn ra trong
giao tiếp xã hội thông qua những lời
thoại. Trong một cuộc thoại, khi ngời
nói lựa chọn TXH nào để biểu thị vai
trao và/ hoặc vai đáp thì đồng thời cũng
đã xác định khung quan hệ giữa mình
với ngời đối thoại. Việc hình thành và
lựa chọn sử dụng TXH chịu sự tác động
của nhiều yếu tố: mối quan hệ quyền
lực và khoảng cách giữa ngời nói với
ngời nghe (ngời phát với ngời nhận);
rộng hơn nữa là phụ thuộc vào hệ t
tởng xã hội gắn với từng thời đại, gắn

với từng giai tầng trong xã hội; và sâu
xa hơn, nó còn chịu sự chi phối mạnh
mẽ của tâm lý và tập quán dân tộc, của
văn hoá dân tộc, văn hoá vùng miền.
Riêng trong tiếng Việt, các từ chỉ ngôi
nhân xng tôi, mày, nó ít đợc sử dụng,
thay cho chúng là những danh từ (DT)
chỉ quan hệ thân tộc nh anh, chị, cô,
dì, chú, bác, ông, bà

Trong giao tiếp, các nhân vật tham
gia hoạt động này đều đợc phân định
rõ rệt ở 3 ngôi vị (số ít và số nhiều): ngôi
1 chỉ ngời nói, ngôi 2 chỉ ngời nghe và
ngôi 3 chỉ ngời đợc nói đến. Tuy
nhiên, khi một hoạt động giao tiếp diễn
ra, chỉ có hai ngôi vị trực tiếp tham gia
giao tiếp (gồm ngời nói và ngời nghe)
sử dụng TXH. Theo Benvenniste trong
tác phẩm Những vấn đề ngôn ngữ học
đại cơng (1966) thì chỉ có ngôi thứ
nhất và ngôi thứ hai mới thực sự là các
ngôi xng hô (ông gọi là các pro -
personne: đại - nhân vật) bởi vì những
ngời đang giao tiếp với nhau dùng
chúng để chỉ nhau. Ngôi thứ ba (đợc
Benvenniste gọi là pro-nom: các đại -
danh từ) không tham gia vào cuộc giao
tiếp mà chỉ đợc dùng để chiếu vật
ngời hay sự vật đợc nói tới.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa xng
hô là tự xng mình và gọi ngời khác
là gì đó khi nói với nhau để biểu thị
tính chất của mối quan hệ với nhau.

Nhận bài ngày 03/3/2008. Sửa chữa xong 14/3/2008.


T




Nguyễn Thị Mai Hoa xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh, Tr. 23-32


24
Theo đó, có thể hiểu xng là hành
động của ngời nói (ngôi 1) dùng một
biểu thức ngôn ngữ để đa mình vào
trong lời nói (tự quy chiếu đến mình) và
hô là hành động của ngời nói dùng một
biểu thức ngôn ngữ để đa ngời nghe
(ngôi 2) vào trong lời nói (quy chiếu đến
ngời đối thoại). Hành động xng hô chỉ
diễn ra trong cuộc thoại và một ngời có
thể (và thờng) thực hiện cả hai hành
động: xng và hô. Nh vậy, ngôi thứ ba
không phải là nhân vật hội thoại, do đó
nhân vật này không tham dự vào hành
động xng hô.
Theo các nhà nghiên cứu, hệ thống
TXH tiếng Việt đợc chia làm hai
nhóm:
Thứ nhất là đại từ nhân xng
(ĐTNX) đích thực. Theo Đỗ Hữu Châu,
ĐTNX trong tiếng Việt (ngôi thứ nhất
và ngôi thứ hai) gồm: tôi, tớ, ta, tao,
mình, mày, bay, chúng tôi, chúng mày,
chúng ta, chúng mình, bọn mình
(không kể các đại từ phơng ngữ).

Trong thực tế giao tiếp của ngời Việt,
hệ thống ĐTNX gốc này đợc sử dụng
hết sức hạn chế; có những từ rất ít dùng
hoặc chỉ dùng trong những điều kiện,
tình huống và với đối tợng giao tiếp
nhất định, vì vậy thờng mất đi tính
trung lập khi đợc đặt vào các ngôi vị.
Việc lựa chọn ĐTNX gốc chủ yếu đợc
căn cứ vào các yếu tố xã hội, tâm lý,
thái độ, tình cảm của những ngời
tham gia giao tiếp, chẳng hạn, từ tôi
thờng sử dụng để giao tiếp trong tình
huống có tính quy thức, hoặc trong
những quan hệ giao tiếp mang tính xã
giao. Nếu trong tình huống giao tiếp phi
quy thức, nhất là đối với quan hệ gia
đình, quan hệ bạn bè thân thiết, việc sử
dụng từ tôi để xng hô thờng đợc
đánh giá là sự thay đổi trong thái độ,
tình cảm theo chiều hớng tiêu cực.
Thứ hai là những từ ngữ xng hô
khác không phải là ĐTNX, đợc dùng
với t cách là ĐTNX lâm thời, gồm một
số nhóm nh: Đại từ dùng để trỏ hoặc
để thay thế; DT chỉ tên riêng; DT chỉ
quan hệ thân tộc; DT chỉ chức danh,
nghề nghiệp; danh ngữ xác định
(DNXĐ) Trong thực tế giao tiếp của
ngời Việt, hệ thống ĐTNX lâm thời
này đợc sử dụng khá rộng rãi ở mọi

điều kiện, tình huống cũng nh với mọi
đối tợng giao tiếp. Việc lựa chọn ĐTNX
lâm thời thờng dựa trên 2 căn cứ: Tình
huống giao tiếp và ứng xử cụ thể và sắc
thái ý nghĩa (thân - sơ; khinh - trọng)
của chính những từ ngữ đó. Nh vậy,
trong giao tiếp tồn tại một hệ thống
TXH chuẩn, gồm: ĐTXH, danh từ chỉ
tên riêng, DT chỉ quan hệ thân tộc, DT
chỉ chức danh, DNXĐ, và những nhóm
từ khác (xem [1]).
Xét trong quan hệ GT, các ĐTNX
gốc trong tiếng Việt không biểu hiện
GT, tức là không có phạm trù giống ngữ
pháp cũng nh giống sinh học. Còn các
ĐTNX lâm thời có thể biểu hiện GT
(nam: anh, chàng, công tử, chú,; nữ:
chị, thiếp, nàng, tiểu th, cô,); cũng có
thể không biểu thị GT (bạn, mình,
ngời ta, đây, đó, ai ). Và do đó, trong
tiếng Việt, muốn xác định GT (trỏ nam
hay nữ) của nhân vật hành động do
ĐTNX biểu thị thì phải dựa vào ngữ
cảnh, văn bản, hoặc phán đoán theo
logic.
II. Về từ xng hô trong HPV
Nghệ Tĩnh
HPV là thể hát rất quan trọng
trong kho tàng dân ca Nghệ Tĩnh. Ra
đời từ trong lao động, gắn với nghề kéo




Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


25
vải của những ngời phụ nữ xứ Nghệ,
hát ví phờng vải dần dần trở thành
thể hát đối đáp giao duyên giữa nam và
nữ, mang những tình ý thiết tha, lành
mạnh, chất phác của trai gái bình dân.
Khác với NN giao tiếp đời thờng, giao
tiếp trong HPV là hình thức giao tiếp
thông qua hát đối đáp, tức là đã đợc
nâng lên thành một nghệ thuật (nghệ
thuật hát dân gian) đồng thời mang
tính tập thể cao. Cũng nh các thể hát
ví khác, HPV là hình thức sinh hoạt
văn hóa bình dân có sự tham gia của
hai đối tợng giao tiếp chính: một bên
là các chàng trai (bên nam) và một bên
là các cô gái (bên nữ). Ngoài ra còn có cả
những ngời đi nghe hát hoặc tham gia
đặt lời hát (có trẻ, có già; có nam có nữ;
có ngời lao động bình dân và cũng có
các nhà nho tham gia với vai trò thầy
gà, thầy bày). Và do đó, các lời hát sử
dụng trong một cuộc HPV không chỉ là
vốn lời ca có sẵn mà thờng đợc đặt ra

gắn với từ ngữ trong từng ngữ cảnh,
từng tâm trạng Tuy nhiên, về bản
chất, mỗi câu VPV khi đợc một cá
nhân cất lên vẫn mang dấu ấn cá nhân
của bản thân ngời hát, trong đó bao
hàm cả dấu ấn GT. Có thể nhận thấy
điều đó qua từ xng hô.
2.2. Để xác định GT (trỏ nam hay
nữ) qua TXH của nhân vật giao tiếp
trong HPV Nghệ Tĩnh, nhiều trờng
hợp chúng tôi phải dựa vào ngữ cảnh,
văn bản, hoặc phán đoán theo logic, trừ
những trờng hợp đã xác định rõ lời
nam hay lời nữ (căn cứ vào quy định
của Giáo s Ninh Viết Giao khi sắp xếp
các chặng hát, các tập hợp lời hát theo
GT (xem [4]); hoặc căn cứ vào ĐTNX có
biểu thị GT);
- Đến đây hỏi thật chủ nhà,
Vờn hồng nghiêm cấm hay là cho
chơi? (nam)
- Vờn xuân nghiêm cấm chín
tầng,
Quan ngang khách tạm xin đừng
có vô (nữ)
Cả hai câu đều khuyết từ chỉ ngôi
thứ nhất (phần xng); ngôi thứ hai
(phần hô gọi) của câu trao là chủ nhà,
của câu đáp là quan ngang khách
tạm. Xét theo thực tế của một cuộc

HPV, bên nữ (những cô gái làm nghề
kéo vải) thờng nhóm họp thành
phờng (có tính chất cố định tơng đối ở
một gia đình nào đó); còn bên nam (các
chàng trai có thể là ngời trong vùng,
có thể là ngời ở vùng khác) thờng
xuất hiện với t cách là khách đến
tham gia hát đối đáp với nhiều mục
đích (đến đây hò hát cho quen hoặc để
giao duyên). Từ đó có thể hình thành
một phán đoán logic: Chủ nhà chính là
bên nữ, quan ngang khách tạm là
bên nam. Theo mạch phán đoán ấy, câu
trao là lời nam và câu đáp là lời nữ.
2.3. Mỗi câu hát VPV (dù xuất hiện
ở dạng đơn hay đợc đặt trong cặp trao
đáp thờng ứng với một lợt lời. Và ứng
với một lợt lời thờng là một cặp TXH:
Chàng về ngoảnh mặt lại đây,
Cho em ngong (nhìn) chút, cho
khuây cơn buồn.
Tuy nhiên, trong một lợt lời của
HPV có thể không xuất hiện TXH, bao
gồm khuyết từ xng hoặc khuyết từ hô,
hoặc có thể khuyết cả hai:
Răng mà không nói không phô (nói)
Hay là đã dở đi nơi mô đi rồi.
Cũng có thể dùng hơn một cặp TXH
(có trờng hợp xuất hiện tới ba cặp
TXH):

- Hỡi ngời bạn cũ quen ta,



Nguyễn Thị Mai Hoa xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh, Tr. 23-32


26
Có ai nh bạn giúp ta một ngời.
Một ngời mời tám cho xinh,
Lời ăn tiếng nói nh mình mình ơi?
(nam)
- Có ai ta dạm cho mình,
Không ai ta lại thế mình đợc
chăng? (nữ)
Trong lời hát nam có 1 từ dùng để
xng ta và 3 từ ngữ dùng để hô gọi:
ngời bạn cũ quen ta, bạn, mình. Qua
cách thay đổi từ hô gọi, có thể thấy rõ ý
định giao tiếp của chàng trai là muốn
chuyển dần mối quan hệ tình cảm theo
hớng tích cực từ xa đến gần đối với
ngời nhận (ngời quen cũ: bạn >
mình); và kết lại là tình đôi lứa qua
cách xng hô quen thuộc của dân gian:
ta - mình. Nhng trong câu cuối, ta -
mình lại tơng đơng tôi - tôi.
III. Giới tính và các nhóm từ
xng hô trong HPV
3.1. Phần lời HPV không sử

dụng từ xng hô
Trong giao tiếp, ngời ta có thể
không sử dụng TXH (khuyết từ xng
hoặc khuyết từ hô) mà vẫn thể hiện
đợc vai giao tiếp. Thực tiễn cho thấy,
có nhiều phát ngôn không có từ xng hô
trong lời thoại. Đây là hiện tợng tỉnh
lợc các từ xng hô trong phát ngôn mà
trên bình diện thông báo, những phát
ngôn này vẫn đảm bảo yêu cầu về thông
tin. Trong giao tiếp thông thờng, hiện
tợng khuyết TXH đợc gọi là cách nói
trống không, cách nói trống nên
trong một số trờng hợp, chúng bị coi là
vi phạm phép lịch sự, làm giảm đi phần
thiện cảm về phía ngời đối thoại, và do
đó cũng sẽ giảm sút hiệu quả giao tiếp.
Qua 767 lời hát nam và 978 lời hát
nữ đợc khảo sát, kết quả cho thấy ở
HPV, trờng hợp khuyết TXH chiếm tỉ
lệ khá cao: ở lời nam là 340 lợt khuyết
từ xng, chiếm 44% và 249 lợt khuyết
từ hô, chiếm 32%, ở lời nữ là 492 lợt
khuyết từ xng, chiếm 50% và 184 lợt
khuyết từ hô, chiếm 19%. Trong nhiều
trờng hợp khuyết cả từ xng lẫn từ hô
(nam lẫn nữ):
- Đến đây đàn hát vui xuân,
Khấu đầu bái tạ trớc sân làm gì?
(nữ)

- Đất đâu có đất lạ lùng,
Đứng thì không đợc, nằm cùng lại
cho (nam).
Trong HPV, hiện tợng khuyết
TXH ở phần xng nhiều hơn phần hô.
Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ từng phần
giữa hai giới thì có điểm khác biệt rất
rõ: khuyết từ xng hô ở lời nữ (50%)
nhiều hơn lời nam (44%), còn khuyết từ
xng hô ở lời nam (32%) nhiều hơn lời
nữ (19%), tức là giới nữ thờng khuyết
từ dùng để xng, còn giới nam thờng
khuyết từ dùng để hô. Qua kết quả
khảo sát, có thể thấy rằng giữa nam và
nữ có sự bình đẳng cao hơn rất nhiều so
với thực tế.
3.2. Phần lời HPV sử dụng từ
xng hô
3.2.1. Hệ thống TXH chỉ xuất hiện
trong lời nam (chỉ có ở TXH lâm thời)
a. Từ ngữ dùng để xng
+ TXH là DT (gồm cả các danh từ có
ý nghĩa ẩn dụ): cố nhân, sãi, Kim
Trọng, Vân Tiên, hạc
Vui chùa thì sãi đến chơi,
Gẫm nh thân sãi thiếu chi nơi tu
hành (nam)
+ TXH là danh ngữ xác định
(DNXD): khách cung trăng, ngời viễn
khách, khách giang hồ

- Vờn hồng có khách cung trăng



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


27
Em con nhà thi lễ nói năng dịu
dàng.
b) Từ ngữ dùng để hô
+ TXH là danh từ thân tộc và
ĐTXH: ả, chị em, cô, mự, nàng (nờng),
o (cô).
- Một niềm chỉ quyết lấy o,
Khéo bông khéo vải, khéo lo việc
nhà.
+ TXH là danh từ: chủ nhà, phờng,
Nguyệt Nga, Kiều, đào liễu
Cảm ơn đào liễu có lòng
Sẵn sàng yên kỉ anh hùng ngồi
chơi.
+ TXH là đại từ nhân xng (kể cả
các danh từ có ý nghĩa ẩn dụ): bạn Trần
Châu, cô ấy, cô bay, cô gái, bên sông, cô
gái bên bờ, chim khôn, dì mình, dì xã,
đôi ả, đào tơ, gái hát tài, gái hữu tình,
gái thuyền quyên, gái má đào, khách
hồng lâu, mự xã, ngời bạn, ngời con
gái, ngời thắt lng xanh, ngời ngồi

tựa cạnh thề, ngời mặc áo thay vai,
ngời chân đạp tay đa, ngơi kéo vải,
ngời giặt vải, nữ tài
Hỏi ngời mặc áo thay vai (ngôi 2,
nữ)
Khăn thâm chít trốc (đầu), con ai
rứa phờng?
3.2.2. Hệ thống TXH chỉ xuất hiện
trong lời nữ (chỉ xuất hiện ở TXH lâm
thời)
a) Từ ngữ dùng để xng
TXH là ĐTNX và danh từ đợc
dùng (thiếp)
+ TXH là danh từ (nữ nhi, thuyền
quyên, Kiều Vân).
Bà chi dẹp giặc kháng Ngô
Nữ nhi muốn hỏi, anh phô cho
tờng?
+ TXH là DTNX (bạn, gái giòn, gái
này)
Đố anh đi học không thầy,
Làm bài không bút gái này theo
không?
b) Từ ngữ dùng để hô
TXH là ĐTNX và DT đợc dùng
nh ĐTNX (chàng).
TXH là DT (kể cả danh từ có ý
nghĩa ẩn dụ): chàng Kim, đông quân,
lang quân, nho sỹ, tài tử thấy đồ, văn
nhân, văn nho.

Mấy khi khách tới vờn đào
Trăm hoa mủm mỉm ra chào đông
quân.
TXH là DTXD: anh kia, anh đi ở,
bạn học, bạn học trò, bạn loan, chàng
niên thiếu, khách đờng xa, khách
Chơng Đài, khách hảo cầu, khách nhà
nông, khách tri âm, khách văn chơng,
ngời thân thuộc, trai xinh.
Lâu ngày xáp khách hảo cầu
Hai tay bng hộp trà lu ra chào.
3.2.3. Hệ thống TXH lỡng tính
3.2.3.1. TXH lỡng tính là ĐTNX:
Thờng chỉ xuất hiện ở phần xng (ngôi
1): tôi, ta (đôi ta).
- Ơ o (cô) dệt vải trong cung,
Cho ta (nam) dệt với cùng chung
một đèn.
- Hai ta khác xã khác làng,
Hỏi ai mách bảo cho chàng biết ta
(nữ)?
3.2.3.2. TXH lỡng tính là những từ
ngữ xng hô khác không phải là ĐTNX,
đợc dùng với t cách là ĐTNX lâm thời
(chúng tôi gọi là hệ thống TXH lâm
thời). Sau đây là một số trờng hợp cụ
thể:
Trờng hợp 1: Xuất hiện ở cả phần
xng (chỉ ngời nói) và phần hô gọi (chỉ
ngời nghe): mình, ai. Đây là hiện

tợng kiêm ngôi theo Đỗ Hữu Châu
(xem [2]), hay còn gọi là hiện tợng một
thể hai ngôi theo cách gọi của Đỗ Thị
Kim Liên (xem [7]). Chẳng hạn, cùng



Nguyễn Thị Mai Hoa xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh, Tr. 23-32


28
một vỏ ngữ âm khi thì dùng ở ngôi thứ
nhất, khi thì dùng ở ngôi thứ hai.
- Trăm năm ai (ngôi 2) chớ quên ai
(ngôi 1),
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim.
Trờng hợp 2: Chỉ xuất hiện ở phần
xng (đây) hoặc chỉ xuất hiện ở phần hô gọi
(đó, bạn, ngời).
- Kết đôi đi cho đó (ngôi 2) vợ đây
(ngôi 1) chồng,
Kẻo mà ngày tởng, đêm trông nhau
hoài.
3.2.3.3 Ngoài ra, có một số TXH lâm
thời lỡng tính có thể thay đổi khi điều
chỉnh vai giao tiếp. Đó là những TXH
dùng để xng khi xuất hiện ở lời nữ
(ngôi 1), nhng lại là từ dùng để hô gọi
khi xuất hiện ở lời nam (ngôi 2): chị em,
em, thuyền quyên, khách (gái) má đào,

khách hồng lâu, nữ nhi, thục nữ, gái
bốn mùa. Ngợc lại, có những TXH
dùng để xng khi xuất hiện ở lời nam
(ngôi 1), nhng lại là từ dùng để hô gọi
khi xuất hiện ở lời nữ (ngôi 2): anh,
quân tử, trai nam nhi, trợng phu, anh
hào, anh hùng, trai thanh tân, khách.
Cố nhân (ngôi 1, nam) tha khách
hồng lâu (ngôi 2, nữ),
Chữ thiên nay đã trồi đầu hay
cha?
- Hồng lâu (ngôi 1, nữ) tha
khách Chơng Đài (ngôi 2, nam),
Chữ thiên sổ dọc đã dài phân minh.
(Chữ thiên sổ dọc là chữ phu, ý nói
đã có chồng)
3.2.3.4. Có trờng hợp vị trí giữa
các vai giao tiếp chuyển đổi: chàng (ngôi
2, nam), thiếp (ngôi 1, nữ). Nam tự
xng chàng (ngôi 1, nam), gọi nữ là
thiếp (ngôi 2, nữ)
- Con kiến đất leo cây thục địa,
Con ngựa trời ăn cỏ chỉ thiên,
Chàng (ngôi 2, nam) mà đối đặng
gái thuyền quyên (ngôi 1, nữ) xin theo
về?
- Con rắn mà lặn qua xà,
Con gà mà mổ bông kê,
Chàng (ngôi 1, nam) đà đối đợc,
thiếp (ngôi 2, nữ) phải về hôm nay.

IV. Sự đồng nhất và khác
biệt TXH giữa nam và nữ trong
HPV Nghệ Tĩnh
4.1. Sự đồng nhất TXH giữa nam
và nữ
Trong HPV, chúng ta bắt gặp cả hai
vai nam và nữ đều sử dụng hệ thống từ
xng hô phong phú và đa dạng, hội tụ
tính dân gian lẫn tính uyên bác. Trớc
hết, ta thờng gặp các tiểu loại cụ thể,
có tính chuẩn mực: ĐTNX, DT, ĐTXĐ.
Ngoài ra, còn có những phơng tiện
xng hô khác nh: từ chỉ xuất (đây), từ
phiếm chỉ (ai), danh từ (anh hùng, anh
hào, cổ nhân, quân tử, tri âm). Đặc
biệt là sự xuất hiện của các từ chỉ quan
hệ thân tộc thuộc nhóm từ địa phơng
(ả, dì, mự, mự xã, dì xã), các danh từ
kết hợp linh hoạt với các danh từ chỉ
xuất xứ: khách Chơng Đài, khách
hồng lâu, danh từ kết hợp với những từ
chỉ đặc trng nổi trội (gái hát tài, nữ
tài, rể nghèo), danh từ kết hợp với đại
từ chỉ định (gái này). Chính sự xuất
hiện cách xng hô phong phú này đã
làm cho những lời đối đáp trong HPV
hội tụ những đặc điểm:
(1) Mang đậm không khí sinh hoạt
văn học dân gian của quần chúng.
Trong các lời hát nam - nữ, ta bắt

gặp cách xng hô luôn đậm chất dân
gian chung cho mọi vùng miền (đây -
đó, chàng - thiếp, mình - ta, loan -
phợng).
Thiếp thơng chàng đừng cho ai biết



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


29
Chàng thơng thiếp đừng để ai hay
Thế gian nhiều kẻ lắt lay,
Cực chàng chín rỡi cực thiếp đây
mời phần.
(2) Thể hiện đậm sắc thái địa
phơng Nghệ Tĩnh.
Sắc thái địa phơng Nghệ tĩnh thể
hiện ở tính mộc mạc, dân giã, thậm chí
hơi thô nhng lại gợi cảm cảm giác gần
gũi, thân thiết giữa những ngời tham
gia cuộc hát (ta - mự, anh - dì mình,
anh - mự xã, zê rô-cô bay).
Thuyền kia dời bến dời dằm,
Tình ta với mự trăm năm nhớ đời.
(3) Có tính uyên bác với những cách
xng hô nghiêng về chữ nghĩa, kinh
điển. Trong các lời hát, bên cạnh các từ
xng hô đậm chất dân gian truyền

thống mộc mạc giản dị, ta còn bắt gặp
lớp từ xng hô uyên bác, bác học, nh
gọi theo tên nhân vật trong các điển
tích, trong các tác phẩm văn học, từ
xng hô Hán Việt (anh - bạn Trần
Châu, anh - gái thuyền quyên, em -
chàng nho sĩ kinh đô, thuyền quyên -
chàng quân tử).
- Mời chàng quân tử vào chơi
Thuyền quyên muốn tỏ đôi lời cho minh
Đây là nét đặc trng nổi bật làm
cho HPV khác các thể hát khác ở Nghệ
Tĩnh.
4.2. Sự khác biệt TXH giữa nam
và nữ
4.2.1. Từ xng hô trong lời hát nữ
không phong phú bằng TXH trong lời
hát nam.
Ngoài cách nói khuyết từ xng và
/hoặc khuyết từ hô gọi, trong 978 lời hát
đợc khảo sát, giới nữ sử dụng 19 từ
dùng để xng và 35 từ dùng để hô gọi
gồm:
Phần xng sử dụng 19 từ ngữ, trong
đó: 7 ĐTNX (bao gồm cả DT thân tộc và
các từ khác đợc sử dụng nh đại từ):
thiếp, em, ta, tôi, mình, đây, ai; 7 DT:
hồng lâu, thục nữ, nữ nhi, thuyền quyên,
chị em, Kiều Vân, phợng; 5 DNXĐ: bạn
loan, gái bốn mùa, gái má đào, gái giòn,

gái này.
Phần hô gọi sử dụng 35 từ ngữ,
trong đó: 7 ĐTNX (bao gồm cả DT thân
tộc và các từ khác đợc sử dụng nh đại
từ): ai, anh, bạn, chàng, đó, mình,
ngời; 16 DT: anh hào, anh hùng, đông
quân, lang quân, nam nhi, nho sỹ,
khách, quân tử, tài tử, thầy đồ, (các)
thầy, trợng phu, văn nhân, văn nho,
chàng Kim, loan; 12 cụm DNXĐ: anh
kia, anh đi ở, bạn học trò, chàng niên
thiếu, chàng thanh tân, khách đờng xa,
khách tri âm, khách nhà nông, khách
Chơng Đài, khách văn chơng, ngời
thân thuộc, trai xinh.
Trong khi đó, ngoài cách nói khuyết
từ xng và/hoặc khuyết từ hô gọi, trong
767 lời hát, giới nam sử dụng 23 từ ngữ
dùng để xng và 49 từ ngữ dùng để hô
gọi. Cụ thể là:
Phần xng sử dụng 23 từ ngữ, trong
đó: 7 ĐTNX (bao gồm cả DT thân tộc và
các từ khác đợc dùng nh đại từ): anh,
ai, chàng, đây, mình, ta, tôi; 10 DT
(ngoài các DT thân tộc đợc dùng nh
đại từ đã nêu trên): anh hùng, anh hào,
cố nhân, khách, quân tử, sãi, trợng phu,
Kim Trọng, Vân Tiên, hạc; 6 DNXĐ:
khách cung trăng, ngời viễn khách,
khách giang hồ, rể nghèo, trai nam nhi,

trai thanh tân.
Phần hô gọi sử dụng 49 từ ngữ,
trong đó: 12 ĐTNX (bao gồm cả DT
thân tộc và các từ khác đợc sử dụng
nh đại từ): ả, ai, bạn, cô, đó, em, mình,
mự, nàng, o (cô), thiếp, ta; 15 DT (kể cả
các DT có ý nghĩa ẩn dụ): chị em, chủ
nhà, dì mình, dì xã, đôi dì, mự xã,



Nguyễn Thị Mai Hoa xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh, Tr. 23-32


30
phờng, tri âm, Nguyệt Nga, Kiều, cá,
đào liễu, đào thơ, chim khôn, chim
phợng hoàng (phợng); 22 cụm DNXĐ:
bạn Trần Châu, cô ấy, cô bay, cô gái bên
sông, cô gái bên bờ, gái hát tài, gái hữu
tình, gái thuyền quyên, gái bốn mùa,
gái má đào, ngời bạn, ngời con gái,
ngời thục nữ, ngời thắt vải lng
xanh, ngời ngồi tựa cạnh thềm, ngời
mặc áo thay vai, ngời chân đạp tay
đa, ngời kéo vải, ngời giặt vải, ngời
dệt vải, nữ tài, khách lầu hồng.
Kết quả so sánh đối chiếu trên cho
thấy hệ thống từ ngữ đợc dùng để xng
hô của giới nữ ít hơn nhiều so với từ ngữ

đợc dùng để xng hô của giới nam (sự
chênh lệch này thể hiện rõ nhất ở phần hô
gọi với sự xuất hiện của các DNXĐ). Trong
quá trình giao duyên, ngoài những cách
xng hô quen thuộc thờng bắt gặp trong
ca dao, dân ca (anh - em, ta - mình, tôi -
nàng), các chàng trai Xứ Nghệ đã mạnh
dạn đa vào hệ thống TXH một loạt từ
ngữ mới thể hiện cách xng hô đa dạng,
phong phú và rất linh hoạt. Điều này cũng
dễ lí giải bởi lẽ dù là khách (đến tham gia
HPV) nhng do đặc thù giới, giới nam bao
giờ cũng tỏ ra bạo dạn, mạnh mẽ, chủ
động, tự tin. Mặt khác, giới nam cũng có
điều kiện đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều
phờng vải, nhiều bạn hát, do đó, hệ
thống TXH cũng thờng xuyên đợc bổ
sung. Còn giới nữ lại chủ yếu chỉ ở một
phờng vải cố định (trừ trờng hợp thay
đổi địa bàn sinh sống do đi lấy chồng) nên
hạn chế về điều kiện giao tiếp. Và do đó,
hệ thống TXH cũng khiêm tốn hơn nhiều
so với giới nam.
4.2.2. Từ xng hô của giới nữ hớng
tới sự chuẩn mực nhiều hơn giới nam
ở phần xng, ngoài cách dùng TXH
zero (50%), giới nữ sử dụng các đại từ
em (30%), thiếp (12%), tôi, ta, mình, ai
(6 %), hoặc một số DT Hán Việt thục
nữ, nữ nhi, thuyền quyên(1%), các từ

ngữ hô gọi nôm na, thuần Việt chị em,
bạn loan, gái bốn mùa, gái giòn, gái
này, gái má đào, đây(1%). ở phần hô
gọi, ngoài TXH zero (19%), giới nữ chủ
yếu gọi bạn HPV (là nam) bằng các từ
xng gọi là ĐTNX chàng (35%), anh
(32%), ai, bạn, mình, ngời,(8%);
ngoài ra họ còn dùng các DT khác (là từ
Hán Việt) nh anh hùng, anh hào,
chàng niên thiếu, chàng thanh tân,
đông quân, văn nho, lang quân, nam
nhi, nho sĩ, quân tử, tri âm, trợng phu,
văn nhân tài tử(5%); rất ít dùng các
từ ngữ hô gọi nôm na anh kia, anh đi ở,
trai xinh, khách nhà nông, khách đờng
xa, ngời thân thuộc, các thấy, thầy
đồ (1%).
- Dặn chàng cho nhớ chàng nha,
Hôm mai đi sớm kẻo mà em trông.
Trong khi đó, ở phần xng, ngoài
cách dùng TXH zero (44%), giới nam
chủ yếu dùng các đại từ anh (43%), ta,
tôi, chàng(9%), các DT là từ Hán Việt
anh hùng, trợng phu, trai nam nhi,
ngời viễn khách, quân tử, trai thanh
tân, anh hào, cố nhân, giang hồ (2%),
rất hạn chế dùng cách nói nôm na rể
nghèo, sãi (2%). ở phần hô gọi, ngoài
cách dùng TXH zero (32%), giới nam gọi
bạn HPV (là nữ) bằng đại từ em (44%),

nàng(11%), bạn, ai, đó, mình, ta,
cô(5%); rất ít dùng từ Hán Việt ngời
thục nữ, nữ tài, tri âm, thuyền quyên
(2%) mà dùng cách gọi tên nôm na, gắn
với công việc, đặc điểm, hoặc mợn tên
các nhân vật văn học: cô gái bên sông,
cô gái bên bờ, chủ nhà, gái bốn mùa, gái
má đào, gái hát tài, ngời con gái,
ngời thắt vải lng xanh, ngời ngồi
tựa cạnh thềm, ngời mặc áo thay vai,



Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 1B-2008


31
ngời chân đạp tay đa, ngời kéo vải,
ngời giặt vải, ngời dệt vải, khách lầu
hồng, phờng, Nguyệt Nga, thậm chí
dùng từ địa phơng ả, o, cô ấy, cô bay,
mự, mự xã, dì mình, dì xã, đôi dì (6%
%); ngay cả từ Hán Việt cũng đợc gắn
với cánh gọi nôm na gái hữu tình, gái
thuyền quyên.
- Trăng lên có chiếc sao chầu,
Hỏi thăm mự xã đã ăn trầu ai cha?
Có thể thấy rằng thói quen của
ngời Việt là xng hô theo tôn ti, thứ
bậc. Đặc điểm này bắt đầu từ các cặp

TXH trong quan hệ gia tộc, rồi từ đó
chuyển sang các cặp TXH ngoài xã hội.
Xng hô gắn với yếu tố GT cũng bị chi
phối bởi những quy định tôn ti, thứ bậc
ấy. Tuy nhiên, quy định này hầu nh
ràng buộc giới nữ nhiều hơn giới nam.
Do đó, trong HPV, với những TXH mộc
mạc, nôm na, cách xng hô của giới
nam thờng nghiêng về mối quan hệ
thân hữu. Ngợc lại, cách xng hô của
giới nữ nghiêng về mối quan hệ quyền
lực theo nguyên tắc xng khiêm - hô tôn
(khiêm nhờng khi nói về mình và tôn
vinh, đề cao khi nói về ngời). Việc lựa
chọn cách xng hô ấy có thể là do giới
nam muốn rút ngắn khoảng cách giữa
ngời hát (nam) và ngời nghe (nữ), còn
giới nữ lại muốn giữ khoảng cách (đợc
hình thành bởi thứ bậc do đặc thù giới
tính quy định theo quan niệm phong
kiến). Đó cũng có thể là cách để giới nữ
thể hiện nét tính cách nhuần nhị, đúng
mực, hiền thục, nết na; cũng có thể là
cách để chứng tỏ thái độ không dễ dãi,
không suồng sã, tránh bị bên nam coi
thờng. Việc lựa chọn TXH trong HPV
ngoài sự chi phối bởi hệ t tởng của
thời đại và của văn hoá dân tộc, văn
hoá vùng miền còn bị chi phối bởi yếu tố
giới tính khá rõ.

V. Kết luận
HPV là một hoạt động giao tiếp đặc
thù vừa mang tính nghệ thuật cao
(thuộc về sinh hoạt văn hoá dân gian)
lại vừa chịu ảnh hởng bởi những nét
riêng của phơng ngữ Nghệ Tĩnh. Dù
xuất hiện ở dạng đơn (một lời) hay ở
dạng cặp trao đáp (thờng gồm một lời
trao và một lời đáp), các vai giao tiếp có
thể không phân biệt về tuổi tác, nghề
nghiệp, địa vị xã hội, nhng lại đợc
xác định trên cơ sở giới tính rất rõ: giới
nam và giới nữ. Mặt khác, đây là một
hình thức hát đối đáp giao duyên, do đó,
đặc điểm giới tính càng đợc bộc lộ qua
nhiều phơng diện: cách sử dụng từ
ngữ, cách chọn đề tài, hình ảnh, cách
cấu trúc câu hát
Nhận xét bao trùm nhất là yếu tố
GT không chỉ thể hiện trong bản thân
các TXH (ví dụ: chàng - thiếp; anh -
em) mà còn ở trong trong cách lựa
chọn TXH theo nguyên tắc ứng xử có
tính chất văn hoá truyền thống của
cộng đồng. Ngời nữ thờng xng em và
gọi ngời nam là anh nh một biểu hiện
của sự khiêm nhờng ở giới nữ trong sự
giao tiếp với vai nam. Việc tìm hiểu đặc
điểm GT qua hệ thống TXH trên đây
chỉ là một phần rất nhỏ để minh họa

cho những tơng đồng và khác biệt về
đặc điểm ngôn ngữ GT trong HPV, qua
đó, chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói
vào việc tìm hiểu một thể loại VHDG
đặc thù của xứ Nghệ - HPV.





Nguyễn Thị Mai Hoa xng hô trong Hát phờng vải Nghệ Tĩnh, Tr. 23-32


32

Tài liệu tham khảo

[1] Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2005.
[2] Đỗ Hữu Châu, Đại cơng ngôn ngữ học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001.
[3] Vũ Tiến Dũng, Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (Qua một số hành động nói),
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trờng ĐHSP Hà Nội, 2003.
[4] Ninh Viết Giao, Hát phờng vải, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2002.
[5] Vũ Thị Thanh Hơng, Giới tính và lịch sự, Ngôn ngữ, số 8 (119)/1999, tr. 17 - 30.
[6] Nguyễn Thị Ly Kha, Từ xng hô thuộc hệ thống nào?, Ngôn ngữ & Đời sống, số
10 (144)/2007, tr. 40-44.
[7] Nguyễn Văn Khang, Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ gia đình ngời
Việt, ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình ngời Việt, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội, 1996, tr. 176 - 188.
[8] Đỗ Thị Kim Liên, Ngữ nghĩa lời hội thoại, NXB Giáo dục, 1999.
[9] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Hà Nội, 2000.

[10] Nguyễn Đức Thắng, Về giới và ngôi ở những từ xng hô trong giao tiếp tiếng
Việt, Ngôn ngữ, số 2 (149)/2002, tr. 59-65.


Summary

GENDER AND Personal pronouns IN folk-songs Vi Phuong vai
in Nghe Tinh

Vi phuong vai is one of the unconventional folk-songs type of the treasure folk-
songs in Nghe Tinh. In these words of songs there are personal pronouns referring
to singing roles: male and female. This class of words has its own gender
chracteristics and differences when functioning. This paper analysed profoundly
these differences.

(a)
Nghiên cứu sinh ngành ngôn ngữ, Trờng Đại học Vinh.


×