Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Thể loại song thất lục bát trong Thơ mới (1932 - 1945) " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.73 KB, 10 trang )




Biện Thị Quỳnh Nga Thể loại song thất lục bát , Tr. 38-47


38
Thể loại song thất lục bát trong thơ mới (1932 - 1945)

Biện Thị Quỳnh Nga
(a)


Tóm tắt.

Bài báo đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thể loại song thất lục bát trong Thơ
mới 1932 - 1945 trên các phơng diện: vị trí, đặc trng chức năng, nội dung và thi
pháp thể loại; từ đó xác định vai trò, "vận mệnh" và sức sống của thể loại này trong
thơ Việt Nam hiện đại.

1. Song thất lục bát (từ đây viết tắt
là STLB) là thể thơ cách luật thuần túy
Việt Nam, đơn vị cơ bản là một tổ hợp
(hay khổ) gồm 4 câu trong đó có 2 câu
thất ngôn và 2 câu lục bát. (Nếu 2 câu
thất ngôn đi trớc rồi mới đến 2 câu lục
bát thì gọi là song thất lục bát. Ngợc
lại, nếu 2 câu lục bát đi trớc rồi tiếp 2
câu thất ngôn, gọi là lục bát gián thất).
Đây là thể loại có chức năng và nội
dung khá phong phú, có thi pháp chặt


chẽ. Điều đáng chú ý là STLB tuy có sự
tham gia của hai thể loại (lục bát và
thất ngôn) nhng sự tham gia này
không phải theo kiểu phép cộng đơn
thuần mà là một sự tham gia - tác hợp
tạo nên một cấu trúc mới - một thể loại
mới mang tính thống nhất chỉnh thể.
Chính vì thế, không thể xem STLB là
biến thể của một trong hai thể loại lục
bát hoặc thất ngôn. Lục bát trong STLB
cũng nh thất ngôn trong STLB hoàn
toàn phụ thuộc vào nhau, tồn tại trong
sự vận hành của thể loại mới - STLB.
STLB xuất hiện trong văn học Việt
Nam vào khoảng thế kỷ XV (sớm nhất
là trong bài Bồ Đề thắng cảnh thi, tập
Lê triều ngự chế Quốc âm thi [1, tr. 252]
sau đó là trong bài Nghĩ hộ tám giáp
giải thởng hát ả đào (1504) của Lê Đức
Mao; tiếp tục hình thành và phát triển
ở các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, định
hình với mô hình chuẩn: câu thất trên,
thanh trắc ở tiếng thứ ba và vần ở tiếng
thứ năm - ở cuối thế kỷ XVIII (Theo
khảo sát và xác định của Phan Diễm
Phơng) [2, tr. 56]. Căn cứ vào tác
phẩm hiện còn, có thể thấy STLB đạt
đến đỉnh cao thành tựu ở chặng đờng
cuối thời trung đại, từ khoảng giữa thế
kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Nó đợc

dùng trong nhiều thể loại khác nhau,
trớc hết là trong ngâm khúc: Chinh
phụ ngâm - bản dịch của Đoàn Thị
Điểm (?), Cung oán ngâm khúc -
Nguyễn Gia Thiều, Tự tình khúc - Cao
Bá Nhạ, Thu dạ lữ hoài ngâm - Đinh
Nhật Thận, Ai t vãn - Lê Ngọc Hân ;
trong văn tế: Văn tế thập loại chúng
sinh - Nguyễn Du; trong thể hành: Tỳ
bà hành - bản dịch của Phan Huy Thực,
v.v Cuối thế kỷ XIX, ngoài các tác giả
(cha rõ) của Nhân nguyệt vấn đáp,
Bần nữ thán, Hà thành thất thủ ca,
Nguyễn Khuyến là ngời có hứng thú
đặc biệt và rất thành công với thể thơ
này. Ông viết liền đến 7 bài, trong đó có
những bài nổi tiếng nh Lời vợ anh
phờng chèo, Khóc Dơng Khuê, Văn di
chúc Cho đến chặng đờng cuối của
thời trung đại, STLB đã chứng tỏ đợc
u thế đặc thù của nó trong đảm nhận

Nhận bài ngày 03/4/2008. Sửa chữa xong 29/5/2008.




trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008



39
chức năng trữ tình (có thể kết hợp với
tự sự) với nội dung giãi bày tâm trạng,
hồi cố, hoài niệm. Sang đầu thế kỷ XX,
STLB lại phát triển mạnh mẽ với nội
dung kêu gọi, cổ vũ, tuyên truyền yêu
nớc và cách mạng (Hải ngoại huyết
th - bản dịch chữ Quốc ngữ của Lê Đại
từ nguyên văn chữ Hán của Phan Bội
Châu, Tỉnh Quốc hồn ca - Phan Châu
Trinh, Bài ca
á
tế
á
- cha rõ tác giả,
Chiêu hồn nớc - Phạm Tất Đắc, Hai
chữ nớc nhà - Trần Tuấn Khải
Trên cơ sở quan sát khá nhiều tác
phẩm STLB, Phan Ngọc nhận xét:
Thông thờng các tác giả đóng vai một
ngời lữ khách. Ngời lữ khách ấy có
thể là một cô gái một mình trong khuê
phòng trống trải, cảm thơng cho thân
phận mình, có thể là một nhà nho trớc
ánh trăng hồi tởng lại một thời đã qua,
cũng có thể là một chí sĩ hôm nay ôn
lại quãng đờng dài, một ngời cách
mạng trong cảnh tù đày, xuất dơng
nhắn nhủ những ngời mình tin cậy
[1, tr. 244]. Nói cách khác là tác giả hoá

thân, nhập vai vào nhân vật trữ tình,
nói hộ nỗi niềm của nhân vật.

Cung
oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đã
hoá thân vào nhân vật ngời cung nữ
nói hộ tâm t, nỗi niềm buồn uất, sầu
muộn, day dứt triền miên trong đau
khổ, thất vọng và oán thán khi bị vua
ghẻ lạnh, bỏ rơi.

Chinh phụ ngâm tác
giả cũng nhập vai vào nhân vật ngời
chinh phụ để bộc lộ, giãi bày nỗi cô đơn
sầu đau, day dứt triền miên do chiến
tranh phong kiến phi nghĩa. Toàn bộ
những tâm trạng này không phải là
bản tự thuật tâm trạng của Nguyễn
Gia Thiều, Đặng Trần Côn hay Đoàn
Thị Điểm, mà là của nhân vật ngời
cung nữ, nàng chinh phụ. Và cách thức
trữ tình ở đây không phải là trữ tình
trực tiếp, là những bản tự thuật tâm
trạng của các tác giả. Tuy nhiên, cũng
có một số trờng hợp tác giả đồng thời
là nhân vật trữ tình, qua tác phẩm, trực
tiếp bộc lộ giãi bày tâm trạng nh Tự
tình khúc của Cao Bá Nhạ, Ai t vãn
của Lê Ngọc Hân. Mặc dầu trong các
tác phẩm này tác giả phần nhiều là trực

tiếp bộc lộ cảm xúc, nhng dẫu sao vẫn
không đợc ngang nhiên thoải mái bộc
lộ tình cảm của mình nh ở trong văn
học hiện đại sau này. Bởi vậy về cơ bản
mà nói trữ tình trong STLB đặc biệt ở
khúc ngâm là loại trữ tình gián tiếp
hay có thể gọi là tự tình. Đặng Thai
Mai đã rất có cơ sở khi gọi trữ tình ở
đây (trong thể loại ngâm khúc dùng
hình thức STLB, cụ thể qua tác phẩm
Chinh phụ ngâm) là tự tình [3, tr. 55].
Theo chúng tôi, khái niệm tự tình chỉ
áp dụng cho khúc ngâm là hợp lí và
thích đáng nhất, không nên dùng khái
niệm này áp dụng cho toàn bộ thơ trung
đại.
2. Thơ mới 1932 - 1945 là cuộc cách
tân thắng lợi lớn về thơ, đánh dấu bớc
ngoặt lớn trong lịch sử thơ ca và văn
học dân tộc. Với nó, thơ Việt thực sự
đợc hiện đại hóa, mang tính loại hình
sâu sắc của thơ hiện đại. Trên hành
trình đi đến hiện đại của thơ Việt, Thơ
mới 1932 - 1945 đã tiếp thu tinh hoa
các thể loại thơ ca vay mợn, sáng tạo
nên những hình thức thể loại mới, đồng
thời tân tạo các thể loại thơ ca cổ truyền
dân tộc - tiêu biểu là lục bát và STLB -
nhằm có thể biểu hiện "dòng cảm xúc
mới" của thời đại một cách phong phú,

hữu hiệu (về thể loại lục bát, chúng tôi
đã có bài viết riêng đăng trên Tạp chí



Biện Thị Quỳnh Nga Thể loại song thất lục bát , Tr. 38-47


40
Khoa học, Trờng Đại học Vinh [4], ở
đây chỉ tập trung vào thể loại STLB).
Cùng với thể lục bát, STLB đã đạt
đến trình độ mẫu mực, điển phạm ở các
chặng đờng cuối thời trung đại (nửa
sau thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX). Bớc
sang thế kỉ XX, đặc biệt từ khi xuất
hiện phong trào Thơ mới (1932 - 1945),
thể STLB phải đứng trớc nhiều thử
thách "khắc nghiệt". Trớc hết là môi
sinh - đất sống cho nó. Thời hiện đại
với nhịp sống gấp gáp và sự hấp dẫn
của tiếng gọi tự do khó có chỗ tồn tại
cho những thể loại khuôn mẫu, có chức
năng và nội dung "hồi cố", "tự tình"
với thi pháp quá chặt chẽ nh STLB.
Thứ hai, STLB thực sự đã rất đã ổn
định, khó có thể thay đổi, "làm mới"
hình thức thể loại. Thứ ba, các tác giả
Thơ mới 1932 - 1945 tìm đến với thể
loại này khi thành tựu của nó đã đạt

đến đỉnh cao với nhiều phong cách tài
năng (Nguyễn Gia Thiều với Cung oán
ngâm khúc, Nguyễn Du với Văn tế thập
loại chúng sinh, Nguyễn Khuyến với
Lời vợ anh phờng chèo, Khóc Dơng
Khuê, v.v ). Thứ t, STLB nói riêng
cũng nh các thể loại thơ cổ truyền
khác nói chung, một khi đã đợc các
nhà thơ mới sử dụng sáng tác nghĩa là
đều phải tồn tại dới áp lực của thời đại
"Thơ mới" - thơ "tự do" - một loại hình
thơ đòi hỏi giải phóng mọi ràng buộc
của hệ thống thi pháp truyền thống.
Trớc những thử thách này, "vận
mệnh" và sức sống của STLB sẽ ra sao?,
chức năng, nội dung và thi pháp thể
loại này sẽ đợc xử lí nh thế nào để:
một mặt, văn học ta không bị mất đi
một thể loại riêng mang đậm bản sắc
dân tộc, mặt khác để nó còn có thể đóng
góp cho thơ Việt Nam hiện đại?
Trớc hết, có thể thấy vị thế khá
khiêm tốn của thể loại STLB trong
bảng thể loại Thơ mới 1932 - 1945
(Chúng tôi khảo sát từ cuốn Thơ mới
1932 - 1945, tác giả và tác phẩm) [5].
Sự hiện diện của thể thơ này trong
"bảng" thể loại Thơ mới 1932 - 1945 với
số lợng không nhiều. Tổng số bài thơ
sáng tác hoàn toàn theo thể STLB chỉ

có 18 bài, chiếm 1,6%. Nếu so với thể
thơ Đờng luật (bao hàm cả hai dạng tứ
tuyệt và bát cú), STLB cha bằng 1/3.
So với lục bát - thể thơ hầu nh luôn
song hành cùng nó suốt một thời kỳ đài
trong thời trung đại, thì số lợng tác
phẩm STLB cũng quá khiêm tốn:
18/148 bài. Và số tác giả tìm đến với thể
STLB cũng chỉ đếm đợc trên đầu ngón
tay. Tiêu biểu có Lu Trọng L với 4
bài: Thơ sầu rụng, Giang hồ, Sứ giả,
Thú đau thơng; Phạm Huy Thông 3
bài: Tiếng đàn khuya, Cành liễu bên hồ,
Tiếng họa mi ca; Hàn Mặc Tử 2 bài:
Muôn năm sầu thảm, Say chết đêm nay.
Đó là những tác giả có số lợng bài
STLB nhiều nhất; còn lại mỗi tác giả
một bài, có: Bích Khê, Thế Lữ, Hồ
Dzếnh, Tế Hanh, Tú Mỡ, Vân Đài,
Hằng Phơng, Đào Xuân Quý, Đồ Phồn.
Về dung lợng, cũng nh thể lục
bát, STLB trong Thơ mới 1932 - 1945
cha có tác phẩm nào có quy mô nh
những khúc ngâm nổi tiếng trong văn
học trung đại. Hầu hết, 18 bài STLB
toàn vẹn trong Thơ mới 1932 - 1945 đều
có quy mô nhỏ. Bài ngắn nhất là Thơ
sầu rụng của Lu Trọng L có 10 câu,
bài dài nhất là Tiếng họa mi ca của
Phạm Huy Thông, 60 câu. Trong số 18

bài STLB trên có 10 bài STLB ở dạng
nguyên thể, nghĩa là đơn vị cơ bản là
một tổ hợp gồm 4 câu trong đó có 2 câu



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


41
thất đi trớc rồi mới đến 2 câu lục bát.
Còn ở dạng lục bát gián thất (tức mở
đầu bằng 2 câu lục bát rồi mới đến 2
câu thất ngôn), có 8 bài. ở dạng phối
xen (tức có sự xen kẽ giữa thể STLB với
các thể loại khác), có 3 bài: Hồ xuân và
thiếu nữ của Thế Lữ, Vọng phu của
Phạm Huy Thông, Đẹp và thơ của Nam
Trân.
Gia nhập vào Thơ mới 1932 - 1945,
STLB đã có những biến đổi đáng kể về
chức năng, nội dung và thi pháp thể
loại. Đây chính là ba phơng diện cơ
bản của thể loại - ba phơng diện có
mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau mà
chúng tôi quan tâm, khảo sát.
3. Sang thời đại Thơ mới, chức năng
và nội dung của STLB đã có nhiều đổi
mới. Thứ nhất, nó không còn phải phụ
thuộc vào các thể loại khác nh ngâm

khúc hay văn tế thời trung đại nữa,
nghĩa là nó là một thể thơ độc lập, tồn
tại cho chính nó. Thứ hai, chức năng
trữ tình của nó bây giờ chủ yếu với nội
dung bày tỏ tình cảm, tâm trạng của cái
Tôi cá nhân cá thể. ở đây, không còn
hiện tợng tác giả phải hoá thân nhập
vai vào nhân vật trữ tình nh trong
ngâm khúc nữa. Phần lớn điệu thơ
STLB Thơ mới 1932 - 1945 là lời giãi
bày trực tiếp của chính nhà thơ. Chủ
thể trữ tình - nhân vật trữ tình lúc này
thống nhất với tác giả hoặc đồng thời là
tác giả. Nỗi khát khao thơng nhớ
mãnh liệt nhng đầy đau thơng quằn
quại trong Muôn năm sầu thảm chính
là bản tự thuật của hồn thơ Hàn Mặc
Tử, nhân vật trữ tình trong bài thơ
không ai khác ngoài thi nhân:
Nghệ hỡi Nghệ! Muôn năm sầu thảm
Nhớ thơng còn một nắm xơng thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nớc mắt bời bời ruột gan
Đây là cốt lõi làm nên sự khác biệt
về chức năng, nội dung của STLB trong
văn học trung đại và STLB Thơ mới
1932 - 1945. STLB ở những bài ngâm
khúc truyền thống, đúng nh nhận xét
của Phan Diễm Phơng, là những tác
phẩm trữ tình trờng thiên, chúng

không giống nh các bài thơ trữ tình
nhỏ thờng đợc viết bằng thể Đờng
luật.

đây không phải chỉ có một cảm
xúc, một suy nghĩ đơn nhất, riêng lẻ,
thoáng qua mà là cả một chuỗi tâm
trạng phức tạp và phong phú cùng
ngng tụ lại. Ví nh trong Chinh phụ
ngâm nhân vật trữ tình là nàng chinh
phụ luôn đi về giữa những hồi ức về dĩ
vãng với những thử nghiệm trong
hiện tại (Dạo hiên vắng thầm gieo từng
bớc/ Tới xuân này tin hãy vắng
không), với cả những suy nghĩ về tơng
lai (Thiếp xin muôn kiếp sau này), khi
chứng kiến những cảnh tợng trớc
mắt (Non đông thấy lá hầu chất đống/
Trĩ xập xoè mai cũng bẻ bai), khi lạc
vào giấc mộng (Sum vầy một lúc tình
cờ) Trong vòng luân chuyển khép kín
ấy, nhiều tâm trạng đã đợc nảy sinh:
nhớ mong, lo lắng, sầu muộn, xót xa,
băn khoăn hối hận, tuyệt vọng [2, tr.
154]. Những tâm trạng ấy không phải
chỉ xuất hiện một lần mà thờng diễn
ra triền miên, lặp đi lặp lại hết đợt này
đến đợt khác, nh không thể chấm dứt,
nhng cũng không thay đổi, phát triển
tạo nên một chuỗi dài tâm trạng dai

dẳng, triền miên xuyên suốt chiều dài
bài thơ. Đặc điểm này nảy sinh do đặc
thù của thể loại ngâm khúc. Trong
ngâm khúc thờng có sự tham gia của
cả hai yếu tố tự sự (thể hiện rõ nhất ở



Biện Thị Quỳnh Nga Thể loại song thất lục bát , Tr. 38-47


42
một cốt truyện sơ giản) và trữ tình, tuy
nhiên trữ tình vẫn đóng vai trò chủ đạo.
STLB trong Thơ mới 1932 - 1945 đã
thoát ra đợc khỏi áp lực của thể loại
ngâm khúc, không phải đảm nhận chức
năng tự sự thì đã đành (STLB trong
Thơ mới 1932 - 1945 ít khi gắn với cốt
truyện), chức năng trữ tình của nó cũng
đã đổi khác. Nó chỉ nhằm bày tỏ một t
tởng, tình cảm, một trạng huống tâm
hồn nhất định nào đó: có thể là hoài cổ,
hồi cố, trầm t hay day dứt đau buồn
v.v Một số ít sáng tác bằng thể STLB
của các nhà thơ mới nh Tra vắng của
Hồ Dzếnh, Sứ giả của Lu Trọng L có
kể chuyện, tuy nhiên yếu tố tự sự ở đây
không nhằm mục đích kể, tả mà là đòn
bẩy làm bật nổi những dòng tâm t

của nhân vật trữ tình. Một điều dễ
nhận thấy là thể STLB trong Thơ mới
đã mang cái hồn của Thơ mới, cái tâm
t buồn - sầu vừa nh mơ hồ lại vừa
nh sâu lắng, u uẩn mang tính chất hồi
cố, hoài niệm của một thế hệ thanh
niên trí thức tiểu t sản trong một thời
đại vừa bế tắc bi kịch vừa lãng đãng
khói sơng, mơ mộng. Tiêu biểu là các
bài: Muôn năm sầu thảm, Say chết đêm
nay (Hàn Mặc Tử), Thơ sầu rụng (Lu
Trọng L), Thức giấc (Thế Lữ). Có lúc
STLB đợc vận dụng để đi sâu mô tả
nỗi cô đơn, bế tắc của cái Tôi thơ mới:
Tiếng đàn khuya (Phạm Huy Thông),
Sứ giả (Lu Trọng L).
Một nét mới của các nhà thơ mới là
tìm về với thể thức STLB không phải để
diễn tả những nỗi niềm, tâm sự u
phiền mang sắc thái trầm t về nỗi đau
day dứt triền miên, thờng xuyên nh
trong văn học trung đại mà nhằm bộc lộ
tâm hồn tơi sáng trong trẻo với những
cảm nhận thi vị mà nên thơ. Dễ nhận
thấy ở đây cái trẻ trung, mang hơi thở
và sắc màu hiện đại. Tiêu biểu nh các
bài Hồ xuân và thiếu nữ (Thế Lữ), Cảm
thông (Tế Hanh), Tra vắng (Hồ
Dzếnh).
STLB trong văn học trung đại, đặc

biệt ở thể loại ngâm khúc, do bị chi phối
bởi chức năng tự tình với nội dung bày
tỏ tình cảm hồi cố, băn khoăn, lo lắng,
bi ai, đã vận dụng khá phổ biến hình
thức các câu hỏi, câu cảm thán. Những
hình thức câu hỏi này với âm điệu khắc
khoải, da diết nh day dả xoáy sâu vào
lòng ngời rất thích hợp để thể hiện
tâm trạng buồn đau, bế tắc của con
ngời (Chinh phụ ngâm - bản dịch của
Đoàn Thị Điểm [3] có đến 20 câu hỏi, 6
câu cảm thán; Cung oán ngâm khúc của
Nguyễn Gia Thiều [6] có đến 35 câu hỏi,
30 câu cảm thán). Chức năng trữ tình
của STLB trong Thơ mới 1932 - 1945 đã
có những đổi khác nên rất ít khi sử
dụng câu hỏi. STLB trong Thơ mới 1932
- 1945 còn mang một số chức năng và
nội dung khác: chức năng trào phúng
với nội dung châm biếm, phê phán (Cái
chuông ông Trùm - Tú Mỡ, Khóc cụ
Tôlăngxơ - Đồ Phồn). Tuy vậy, chừng ấy
thay đổi dờng nh cũng cha đủ để tạo
nên một ấn tợng mới rõ rệt. Tính chất
trữ tình, hồi cố vốn đợc tạo ra từ thời
hoàng kim của thể thơ vẫn chiếm u
thế.
Rõ ràng,

bớc sang thời hiện đại,

STLB đã mất vị trí nổi bật trên thi đàn.
Nó không có những biến động đáng kể
mà dờng nh vẫn duy trì khả năng
chuyên biệt hóa trong chức năng biểu
đạt nội dung ở thời trung đại, trong khi
đó đã có nhiều thể thơ mới xuất hiện
cho phếp con ngời thoải mái, tự do bộc
lộ những cảm nhận của mình. Mặt



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


43
khác, cũng ở thời đại này, ngời ta
thờng thích cái gì tự do, phóng túng
không theo khuôn khổ, ràng buộc. Phải
chăng vì thế mà ngời ta đã tránh
STLB - một thể thơ tuy giàu tính nhạc
và khả năng biểu hiện nội tâm nhng
có thi pháp thể loại quá chặt chẽ,
nghiêm ngặt? Tuy nhiên không thể phủ
nhận vai trò của nó trong thời đại thơ
mới cũng nh những tìm tòi, sáng tạo
của thế hệ nhà thơ mới trong công cuộc
cách tân, hiện đại hóa thơ Việt.
4. Trớc Thơ mới 1932 - 1945, nh
đã trình bày ở trên, STLB đã đạt đến
trình độ cổ điển. Liệu còn có thể làm

mới thể loại này?
Trớc hết, xét về cấu trúc.

Quan
sát 18 bài thơ STLB ít ỏi, có thể thấy
mô hình chuẩn của STLB từng đợc xác
lập trong văn học trung đại vẫn đợc
các nhà thơ mới bảo lu, và có lẽ cũng
khó có thể phá vỡ. Có một ít biến đổi
nhng với mức độ thấp và không đáng
kể. Duy nhất có một trờng hợp (bài
Giọt lệ trích tiên của Bích Khê) vắng
bóng hoàn toàn cặp câu lục bát, vai trò
kết bài đợc trao cho hai câu thất. Tuy
vẫn bảo lu mô hình chuẩn mực của
STLB cổ truyền nhng các bài STLB
thơ mới tỏ ra a dùng kiểu lục bát
gián thất hơn (hai câu lục bát đi trớc
rồi mới đến hai câu thất). Trong số 18
bài STLB thì có tới 8 bài mở đầu bằng
cặp câu 6/8: Thức giấc (Thế Lữ), Thơ
sầu rụng và Sứ giả (Lu trọng L), Giọt
lệ trích tiên (Bích Khê), Quán cũ trong
sơng (Hằng Phơng), Khóc cụ
Tôlăngxơ (Đồ Phồn), Nửa đêm (Đào
Xuân Qúy). Riêng trờng hợp bài Sứ
giả của Lu Trọng L, giữa bài thơ có
một dòng 7 trên bị bớt tiếng co lại
thành dòng 4, dòng 7 dới giãn ra
thành dòng 8; kéo theo hiện tợng xô

lệch vần: tiếng thứ 4 dòng 4 vần với
tiếng thứ 6 dòng 8 trên, tiếng thứ 5
dòng 8 dới vần với tiếng thứ 4 dòng 4:
(Mà khi ngoảnh lại thì ta không còn)
Là chim sứ giả
Em bay từ bể cả đến ngàn sâu
Bay khắp sáu đảo ba châu
Tìm hoa cho gió đón sầu cho thơ
Mặt khác, xét toàn bộ tác phẩm,
không chỉ riêng cấu trúc mà dờng nh
các đặc điểm khác của thi pháp thể loại
cũng không đợc nhà thơ tuân thủ. Hơn
nữa, kết thúc bài thơ là câu lục: Lang
thang núi bạc mây chiều (khuyết câu
bát). Những biến dạng này của STLB
phải chăng là phá cách của Lu Trọng
L trong tâm thế sáng tạo tự do của
thời đại thơ mới? Những biến đổi phức
tạp này phải chăng phản ánh chính sự
phức tạp trong dòng cảm xúc của chủ
thể trữ tình? Có thể thấy ở đây ý thức
làm mới thể loại ít nhiều của tác giả
dẫu rằng hiệu quả nghệ thuật của bài
thơ cha cao.
Thứ hai, về vần và nhịp. Những
quy ớc về vần, luật của thể STLB (đặc
biệt ở hai câu thất) hầu nh là có tính
mặc định. Chính vì vậy mà các nhà thơ
mới khó có thể khai phá gì thêm. Khuôn
vần vẫn giữ nguyên. Về nhịp điệu, bên

cạnh cách ngắt nhịp truyền thống 3/4
(lẻ trớc, chẵn sau) ở hai câu thất, nhịp
chẵn về cơ bản ở hai câu lục - bát; STLB
Thơ mới cũng có những phá cách, sáng
tạo mới mẻ. Ví dụ ngắt nhịp 1/ 4 / 2 ở
câu thất trên:

! / Cụ sớm lựa thời / là phải
(Nhng chờ chi nay mới cuốn xiêm)
(Đồ Phồn - Khóc cụ Tôlăngxơ)
Em: / sứ giả Minh Hoàng / ngời cũ,
(Chốn ngọc cung mái phủ sầu che)



Biện Thị Quỳnh Nga Thể loại song thất lục bát , Tr. 38-47


44
(Lu Trọng L - Sứ giả)
Ngắt nhịp 1/ 2 / 4 ở câu thất trên:
Nhng; / than ôi ! / giọng ta vừa cất.
(Chim họa mi im bặt lời ca)
(Phạm Huy Thông - Tiếng họa mi ca)
Chàng! / chàng ơi! / sao chàng hờ hững
(Để lòng em nặng đựng thơng đau)
(Phạm Huy Thông - Vọng phu)
Ngắt nhịp 2/ 2 / 3 ở câu thất trên:
Nhng không! / nhng không! / chàng
vẫn sống

(Để biển mù ngong ngóng em trông)
(Phạm Huy Thông - Vọng phu)
Ngắt nhịp 4/ 3 ở câu thất dới:
(Hỡi mây im lng trời nghĩ ngợi!)
Gió đìu hiu hỡi! / hỡi sơng câm
(Phạm Huy Thông - Vọng phu)
Ngắt nhịp 1/ 3 / 2 ở câu lục:
Rằng: / Đi từ độ / vào thu
(Gió thu về chậm, cuộc du trễ tràng)
(Lu Trọng L - Sứ giả)
Còn về phối thanh bằng trắc,
một số câu thơ dòng thất cũng có phạm
luật. Tiêu biểu là bài Hồ xuân và thiếu
nữ của Thế Lữ. Với nhu cầu biểu thị
niềm vui tơi trẻ, trong sáng, Thế Lữ đã
đổi thanh trắc gắt gao ở tiếng thứ 3
dòng thất trên thành thanh bằng nhằm
tạo âm hởng thanh thoát, vang xa:
- Trên mặt hồ in màu ngọc biếc
Cô em đang bơi chiếc thuyền con.
- Đặt mái chèo ngả đầu trên gối
Trông mây chiều phơi phới bên kia
-

y đăm đăm mơ mòng chi đó
Hỡi cô em má đỏ hây hây
Phạm Huy Thông cũng dùng
thanh bằng ở tiếng thứ 3 dòng thất trên
kết hợp với thán từ tạo tiếng gọi thiết
tha:

Nhng; than ôi ! giọng ta vừa cất.
Chim họa mi im bặt lời ca
(Phạm Huy Thông - Tiếng họa mi ca)
Chàng! chàng ơi! sao chàng hờ hững
Để lòng em nặng đựng thơng đau
(Phạm Huy Thông - Vọng phu)
Thứ ba, về giọng điệu và ngôn
ngữ. STLB truyền thống, đặc biệt đợc
dùng trong ngâm khúc, với nội dung diễn
tả những tâm trạng mang tính chất bi
kịch nên mang âm điệu chủ đạo là bi ai,
sầu não, có lúc nh đợc đẩy đến tuyệt
vọng. Giọng điệu đặc thù này của STLB
đã tìm thấy sự đồng điệu ở những tâm
hồn bế tắc, mang nặng niềm đau thơng
nhân thế ở những cái Tôi thơ mới. Vì thế
không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ
mới tìm về với thể thơ này trong bối cảnh
mà họ có nhiều hớng lựa chọn thể loại.
Giọng điệu trong thơ Hàn Mặc Tử có lúc
đợc thể hiện qua những thanh âm trúc
trắc, biểu lộ sự quằn quại trong tuyệt
vọng, là tiếng gọi níu luyến đầy thiết tha
hy vọng của một kẻ đam mê đến gần đứt
sự sống:
Nghệ hỡi Nghệ! muôn năm sầu thảm
Nhớ thơng còn một nắm xơng thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nớc mắt bời bời ruột gan.
(Hàn Mặc Tử - Muôn năm sầu thảm).

Còn Vân Đài thì thổn thức :
Giọt lệ thảm cứ rơi thánh thót
Khiến lòng ai chua xót vì ai
Ngùi trông châu lệ tuôn rơi
Cảm hai giọt lệ bao nguôi tấc lòng!
(Vân Đài - Cảm hai giọt lệ)
Giọng điệu với sắc thái chủ đạo này
choán hầu hết các tác phẩm STLB Thơ
mới 1932 - 1945. Tuy nhiên bên cạnh
nốt chủ âm trầm và buồn ấy, STLB
nhiều khi lại đợc thứ âm thanh tâm
hồn đa điệu của thời đại thơ mới phổ
vào lắm cung bậc. Đó là chất giọng rủ rỉ
của một nỗi buồn mơ hồ, lơ lửng nhng
ám ảnh, kéo dài nh trong bài Thơ sầu



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


45
rụng của Lu trọng L. Có lúc là âm
điệu trong sáng, thiết tha, thể hiện
niềm khát khao giao cảm, xẻ chia da
diết:
Này khăng khít da ta da đất
Mạch cảm thông ngây ngất tâm can
Giác quan mở rộng dặm ngàn
Hồn vui ngự giữa nhịp nhàng bao la.

(Tế Hanh - Cảm thông).
Mang giọng điệu tơi vui này còn
phải kể đến Tra vắng (Phạm Huy
Thông) và Hồ xuân và thiếu nữ (Thế
Lữ). Tú Mỡ, Đồ Phồn còn trao cho STLB
một thứ giọng lạ lẫm, tởng nh rất
chối tai, vậy mà khi đọc lên, những
thanh âm STLB lại diễn tả rất hiệu quả
ý đồ của nhà thơ. Đó là giọng trào
phúng, cời cợt, mỉa mai, châm biếm,
đả kích. Chẳng hạn Đồ Phồn Khóc cụ
Tôlăngxơ. Bài thơ này Đồ Phồn nhại
theo Nguyễn Khuyến ở bài Khóc Dơng
Khuê. Nhng ở bài Khóc Dơng Khuê
của Nguyễn Khuyến, giọng điệu chủ
đạo là giọng hoài niệm, tiếc thơng, đau
xót. Còn ở Đồ Phồn là giọng kể tội,
châm chọc, nhạo báng cụ Tô Sự đa
dạng hoá trong âm thanh giọng điệu
của thể STLB là một cố gắng tìm kiếm
mới trong thơ của các nhà thơ mới, góp
phần chuyển điệu thơ STLB từ trữ
tình điệu ngâm sang trữ tình điệu
nói.
Phù hợp với giọng điệu, ngôn ngữ
thơ cũng có những biến đổi. Các tác giả
STLB đặc biệt chú trọng khai thác từ
láy nhằm tăng hiệu quả nghệ thuật cho
hình tợng ngôn từ. Rất nhiều những
từ láy mang sắc thái chủ quan mạnh

mẽ, có tác dụng lột tả những tâm tình
thống thiết, day dứt, triền miên trong
đau khổ đợc dùng trong STLB Thơ mới
1932 - 1945 (hiu hắt, đìu hiu, sùi sụt,
vật vờ, rên rỉ, âm thầm, se sẽ, vắng vẻ,
hiu hiu v.v ). Lớp từ ngữ hình ảnh
mang tính ẩn dụ, biểu tợng cũng xuất
hiện với tần số cao (gió mây, ánh trăng
vàng, cửa sổ, bóng, tờ chuối xanh, bức
mành, tiếng sâu, dế, tiếng sáo diều,
tiếng lụa xe, bụi hồng, hoa đào, non
nớc, má đào, nàng, non Ngọc, Đoài
Dao, Diệu trì, Bao Tự, Quý Phi ). Hệ
thống các từ ngữ gần với lời ăn tiếng nói
hàng ngày, các thành ngữ Ngồi phỉnh
mát ăn bát vàng, chuông bạc chuông
vàng và hệ ngôn ngữ trào phúng đều
đợc đa vào thơ STLB nhằm mục đích
châm biếm, phê phán. Với xu thế trữ
tình điệu nói, do yêu cầu bộc lộ trực
tiếp nỗi lòng mình, các nhà thơ mới đặc
biệt thích khai thác lớp từ ngữ kêu gọi,
hô ngữ, các trợ từ nh: Nghệ hỡi nghệ!
muôn năm sầu thảm (Hàn Mặc Tử),
Nhng than ôi! giọng ta vừa cất (Phạm
Huy Thông), Lòng anh buồn vời vợi em
ơi (Lu Trọng L)
Thứ t, về nghệ thuật tổ chức
câu thơ, dòng thơ. Các câu thơ, dòng
thơ của STLB cũng rất hiếm khi xảy ra

những biến đổi bất ngờ. Nghệ thuật đối
kể cả lối bình đối (đối cách cú) và tiểu
đối (đối vế trong dòng câu) cũng ít đợc
vận dụng. Hiện tợng vắt dòng chỉ xảy
ra hai lần trong Tiếng hoạ mi ca của
Phạm Huy Thông:
- Qua khung cửa, bóng trăng bỗng rọi
Mớ hào quang chói lọi vào phòng.
- Đơng sáng sủa tựa hồ dòng suối
Chảy vội vàng trên khối pha lê.
Sự xuất hiện dấu chấm câu giữa
dòng làm dòng thơ chia tách thành hai
đơn vị cú pháp độc lập chỉ xảy ra duy
nhất một lần trên dòng thất:
Giờ thanh thoát. Đất ơi! có biết.
Ta không buồn tử biệt, sinh ly.
(Tế Hanh - Cảm thông)



Biện Thị Quỳnh Nga Thể loại song thất lục bát , Tr. 38-47


46
và một lần trên dòng lục:
Lạnh lùng, gió cuốn. Hững hờ,
Trên cao một đám mây mờ đi qua
(Phạm Huy Thông - Cành liễu bên hồ)
Tóm lại, STLB khi đi vào Thơ mới
1932 - 1945 tuy đã đợc cách tân, làm

mới ở một số yếu tố nhng trên cơ bản
nó vẫn giữ nguyên hình hài, dáng vẻ
vốn đã từng đạt đến giá trị cổ điển thời
trung đại. Sức mạnh truyền thống quá
lớn của thể loại xét về cả ba phơng
diện chức năng, nội dung và thi pháp là
điều khó có thể phá vỡ. Điều đáng nói là
nó đã mang đợc cái hồn của Thơ mới
và ít nhiều vẫn theo đợc dòng chảy của
Thơ mới, ít nhiều góp phần tạo nên diện
mạo đặc sắc của thơ Việt Nam hiện đại.
5. Bớc sang thời hiện đại, STLB
tuy không còn môi sinh, đất sống nh
thời hoàng kim của nó nữa nhng nó
vẫn chứng tỏ đợc những u thế nhất
định trong nhận thức và biểu hiện, nhất
là ở chức năng trữ tình (với nội dung
bày tỏ t tởng, tâm trạng của cái Tôi
cá nhân cá thể). Thơ mới 1932 - 1945
song song với việc sáng tạo và du nhập
những thể loại mới từ phơng Tây, đã
thực hiện một cuộc tổng duyệt lại các
thể loại truyền thống (ở cả hai nguồn
ngoại nhập - từ Trung Quốc, và nội sinh
- thuần Việt) để làm nên một loại hình
thơ mới - hiện đại. Trong cuộc tổng
duyệt - cách tân này, công bằng mà nói,
thể loại STLB cha thực sự đợc thực
hiện thành công nh một số thể loại
truyền thống khác (tiêu biểu nhất là lục

bát), thiếu những tác phẩm để đời (Có
lẽ vì thế chăng mà trong Thi nhân Việt
Nam [7] Hoài Thanh - Hoài Chân đã
không lựa chọn đợc tác phẩm xuất sắc
nào?)
Cũng không vì thế mà cho rằng
STLB cũng nh một số thể loại thơ
truyền thống khác đã đến hồi cáo
chung, hết vai trò lịch sử, không còn có
thể đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con
ngời hiện đại. Sau Thơ mới 1932 -
1945, vẫn xuất hiện những tác phẩm
STLB có tiếng vang, tiêu biểu nh
Hành phơng nam của Nguyễn Bính,
Ba mơi năm đời ta có Đảng của Tố
Hữu, Trờng ca kể chuyện Bác Hồ của
Sóng Hồng. Đặc biệt gần đây có trờng
ca Con Hồng cháu Lạc của Nguyễn
Khánh Toàn với hơn 15 nghìn câu thơ

[8] Rõ ràng, con đờng đi đến hiện đại
của thơ ca nói riêng và văn học dân tộc
nói chung hãy còn tiếp tục; trên con
đờng ấy, sự tham gia của một số thể
loại truyền thống, trong đó có STLB,
cha phải đã kết thúc. Vấn đề là tài
năng vận dụng, sáng tạo của ngời
nghệ sĩ và khoa học khảo cứu, thẩm
định của các nhà nghiên cứu.



Tài liệu tham khảo

[1] Phan Ngọc (Chủ biên), Thử xét văn hoá văn học bằng ngôn ngữ, NXB Thanh
niên, 2000.
[2] Phan Diễm Phơng, Lục bát và song thất lục bát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1998.
[3] Đặng Thai Mai, Giảng văn Chinh phụ ngâm, Trờng Đại học S phạm Hà Nội I,
Hà Nội, 1992.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 2B-2008


47
[4] Biện Thị Quỳnh Nga, Vị thế và đặc trng thi pháp thể loại lục bát trong Thơ mới
1932 - 1945, Tạp chí Khoa học, Trờng Đại học Vinh, Tập XXXVI, Số 2B, 2007.
[5] Nhiều tác giả, Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm (Lại Nguyên Ân tập hợp
và biên tập), NXB Hội nhà văn, 2004.
[6] Dịch giả Văn Hà Vũ Trung Lập, Cung oán ngâm khúc - The complaints of An
Odalísque, NXB Mũi Cà Mau, 1997.
[7] Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội (bản in lần
thứ 12), 1996.
[8] Hà Linh, 29 tuổi và hơn 15.000 câu thơ về lịch sử,
[9] Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội, 2002.

sumarry

The seven - seven - six - eight meter in the renovation

poetry (1932 1945)

The paper studies carefully on the seven - seven - six - eight meter in the
renovation poetry 1932 - 1945, especially on its features: position, functionnal
characteristics, content, and prosody. From that, it defines the role, desnity
anh the life of type in Viet Nam modern poetry.

(a)
Cao học 14 - Văn học Việt Nam, Trờng Đại học Vinh.


×