Bạch Công Tấn sưu tầm
Bộ phận dùng: Mầm “hạt” thóc đã chế biến khô còn gọi là cốc nha (Frutus
Oryzae germinatus).
Mô tả: Cây lúa mọc hàng năm, được trồng khắp vùng Đông Nam Á trên các
ruộng có nước. Cây thảo cao 0,60 – 1m. Phiến lá dài, bẹ cao, trắng, lưỡi bẹ có
lông. Chùy hoa gồm nhiều bông. Mày hoa có lông gai, quả thóc dính chặt với
mày hoa (trấu), ta vẫn quen gọi là “hạt thóc”.
Có nhiều thứ lúa, phổ biến là 2 thứ: Lúa tẻ: var. utilissima A.Camus và Lúa n
ếp:
var. glutinosa Tanaka.
- Cây lúa mì (Triticum aestivum L. cùng họ Lúa)
Trồng ở các nước ôn đới (ở Việt Nam trồng ít ở miền núi mát) là 1 loài khác.
Thu hái chế biến: Thu hoạch “hạt” thóc quanh năm, tùy theo giống, theo vụ.
Sàng sấy, phơi khô.
Chế biến cốc nha: ủ cho lên mầm rồi phơi sấy khô. Lấy thóc ngâm nước cho
ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ độ ẩm đều, sau vài ngày hạt
thóc sẽ mọc mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi, sấy khô
(để nguyên hoặc tán nhỏ, sấy hết trấu mà dùng).
Thành phần hóa học: Trong cốc nha sơ b
ộ có các chất men amylase, các tinh
bột, lipid, protid, các vitamin B, C, E.
Công dụng: Theo Đông y, cốc nha vị ngọt, tính ấm vào 2 kinh Tỳ, Vỵ.
Có tác dụng giúp tiêu hóa, khai vỵ.
Chữa các chứng bệnh: tiêu hóa kém, thức ăn tích đọng, bụng đầy trướng, do
tỳ, vỵ hư nhược.
Liều dùng: 10 – 15g (sống hay sao nhẹ). Sắc hoặc tán bột.
Lưu ý: Cốc nha và mạch nha đều có tác dụng kiện vỵ, giúp ti
êu hóa, nhưng tác
dụng giúp tiêu hóa của mạch nha mạnh hơn, tác dụng dưỡng vỵ của cốc nha
mạnh hơn. Vì vậy, thường dùng kết hợp cả 2 cốc mà m
ạch nha để chữa chứng
tỳ, vỵ hư nhược, tiêu hóa kém.
Bài thuốc:
Bài số 1: Chữa tiêu hóa kém, thức ăn tích đọng, bụng đầy trướng:
Cốc nha (sao nhẹ) 10g
Sơn tra (sao sém) 10g
Thần khúc (sao sém) 10g
La bạc tử (hạt củ cải) 6g
Sắc uống.
Bài số 2: Chữa chứng bệnh như trên:
Cốc nha (sao nhẹ) 10g
Thương truật 6g
Bạch Công Tấn sưu tầm
Kê nội kim 6g
Cam thảo (trích) 6g
Sắc uống.
Bài số 3: Chữa tỳ vỵ hư nhược, kích thích tiêu hóa, chữa tiêu hóa kém, ỉa
chảy, nôn mửa.
Cốc nha (sao nhẹ) 15g
Cam thảo (trích) 6g
Sa nhân 3g
Bạch truật 10g
Sắc uống.
Ngày 07/09/2005
Theo sách "Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược" - Nhà xuất bản Y học
Thịt chim bồ câu làm thuốc
Cập nhật lúc 14h29" , ngày 08/03/2007
Thịt chim bồ câu có tác dụng bổ can thận, kiện tì vị,
ích khí huyết, khử phong giải độc. Thịt được dùng
như thuốc cho trường hợp gầy yếu suy nhược, dinh
dưỡng không tốt…
Chim bồ câu là loại động vật thuộc họ chim gáy. Thịt
bồ câu: tính bình, vị mặn. Thành ph
ần chủ yếu: thịt có
chứa protein thô là 22,14%, mỡ, calci, phốt-pho, sắt,
muối khoáng, các loại vitamin và một bộ phận acid
hữu cơ khác.
Thịt bồ câu dinh dưỡng phong phú, thơm, vị ngọt, là loại thực phẩm tốt cho
người già, trẻ em, người bệnh và s
ản phụ. Trứng bồ câu có chứa protein 9,5%,
chất béo 6,4%, hợp chất đường và calci, sắt, phốt-pho
Thịt chim bồ câu có tác dụng bổ can thận, kiện tì vị, ích khí huyết, khử phong
giải độc. Dùng cho trường hợp gầy yếu hư nhược, tiêu khát, hay quên, mất
ngủ, thần kinh suy nhược, dinh dưỡng không tốt, phụ nữ huyết hư tắc kinh, bị
lở loét nấm ngoài da ác tính Trứng chim bồ câu có thể bổ hư giải độc.
Cách dùng: Thịt xào chín, nấu canh. Trứng thì luộc hay chần nước sôi.
Chữa trị: Người già thận hư, cơ thể suy nhược, thận hư lao tổn, bổ thận ích
khí, bệnh đái đường, phụ nữ huyết hư tắc kinh, dự phòng bệnh sởi.
Thuốc từ cây dâm bụt
Bạch Công Tấn sưu tầm
Cả 2 loại dâm bụt thường và dâm bụt kép đều được sử dụng làm
thuốc để chữa trị nhiều bệnh. Hầu như các bộ phận của cây như lá,
hoa, rễ và thân đều có tác dụng trong trị liệu.
Dâm bụt thường
Là loại cây thân gỗ nhỏ, mọc thẳng đứng, có độ cao 1-3 m. Mép lá
có khía răng, hoa màu đỏ hồng, cũng có loại hoa màu trắng hồng,
hình phễu mọc ở nách lá hay đầu cành, nhị nhiều ở trên một trụ
dài hơn phễu hoa. Quả nang hình trứng hơi tròn, chứa nhiều hạt.
Đông y cho rằng với dâm bụt loại này vỏ rễ vị ngọt, tính bình, có
tác dụng điều kinh, tiêu viêm, chống ho và chữa nhiều bệnh như
viêm tuyến mang tai, viêm kết mạc cấp, viêm khí quản, viêm
đường tiết niệu, viêm c
ổ tử cung, bạch đới, kinh nguyệt không đều,
mất kinh…
Hoa vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu
thũng khế huyết, cố tinh, sát trùng, chữa kinh nguyệt không đều,
khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ Lá vị nhạt, nhớt, tính bình, tác dụng an
thần, tẩy nhẹ, nhuận tràng, chữa viêm niêm mạc dạ dày, ruột, đại
tiện ra máu, kiết lỵ, mụn nhọt, ghẻ lở, mộng tinh, đới hạ…
Dâm bụt kép
Đây cũng là loại thân gỗ nhỏ, cao từ 2-3 m, nhiều cành tạo thành
bụi lớn, lá hình thoi, răng cưa, mép lá lớn và phân làm 3 thùy, gốc
lá tù, đầu hơi nhọn, có cuống rất ngắn phủ lông mịn, kín. Hoa mọc
đơn, màu trắng, hồng hay tía tím. Đài hoa nhỏ và 5 cánh r
ời, nhiều
nhị. Quả nang hình trứng, hạt hình thận có lông tơ, mùa ra hoa,
quả từ tháng 7-10.
Theo Đông y, hoa dâm bụt kép vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh
nhiệt lương huyết, giải độc, tiêu thũng, chữa kiết lỵ, tiêu chảy,
bạch đới, xuất huyết. Liều trung bình mỗi ngày sắc uống 10-30 g.
Ngoài ra, nó còn dùng chữa mụn nhọt, viêm mủ da, bỏng…
Vỏ thân và vỏ rễ vị ngọt, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn
chống ngứa, chữa kiết lỵ, tiêu chảy, bạch đới, thống kinh. Thuốc
Bạch Công Tấn sưu tầm
s
ắc với liều th
ư
ờng 3
-
10 g.
Ngoài ra còn dùng ch
ữa bệnh ngo
ài da
và Eczema…
Lá dâm bụt kép được dùng làm trà uống, lợi tiêu hóa, trị ngứa và
thuốc lợi tiểu. Quả dâm bụt kép vị ngọt, tính bình, tác dụng tiêu
viêm đường hô hấp, tiêu đờm, dãi giảm đau, chữa cảm, ho, thở
khò khè, đau đầu do thần kinh, chứng thiên đầu thống Sắc với
liều 10-15 g mỗi ngày, có thể dùng trị rôm sảy.
Các bài thuốc có dâm bụt
Chữa viêm tuyến mang tai: Lá dâm bụt 30 g, sắc uống ngày 1
thang, chữa 3 lần. Nơi mang tai đau, dùng hoa dâm bụt 20 g giã
nát đắp ngoài.
Chữa viêm kết mạc: Rễ dâm bụt 30 g, sắc uống ngày 1 thang chia
3 lần, dùng 2-3 tháng.
Chữa kinh nguyệt không đều: Vỏ rễ dâm bụt 30 g, lá huyết dụ 25
g, ngãi cứu 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần/ngày. Uống 3
ngày, uống trước hành kinh 7 ngày.
Chữa di tinh: Hoa dâm bụt 10 g, hạt sen 30 g. Sắc uống ngày 1
thang trong 10 ngày liền.
Chữa mất ngủ: Lá dâm bụt 15 g, hoa nhài 12 g. Sắc uống vào bu
ổi
chiều trong 5 ngày liền (dùng dâm bụt kép).
Chữa thống kinh: Hoa dâm bụt kép 5 g, ngãi cứu 5 g, bồ kết 3 g.
Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trong 15 ngày liền trước kỳ kinh
20 ngày.
Chữa ho: Quả dâm bụt kép 5 g, gừng 3 g, nghệ 8 g, ngải cứu 8 g.
Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trong ngày.
Chữa kiết lỵ: Hoa dâm bụt kép 10 g, lá mơ lông 8 g, trứng gà một
quả. Đập trứng vào thuốc đã thái nhỏ, trộn đều, cho vào bát hấp
cách thủy hoặc hấp cơm cũng được, ăn hết một lần, dùng 2-
3 ngày
sẽ hiệu quả.
Rau cần - Loại rau quý mùa đông
Bạch Công Tấn sưu tầm
Cập nhật lúc 13h40" , ngày 12/03/2007
Rau cần là loại rau của mùa lạnh, nhưng ngay từ
những ngày cuối thu bạn đã bắt gặp những gánh rau
cần được bày bán ở chợ. Rau cần có hai loại, một
loại là cần cạn trồng ở ruộng, một loại là cần nước
được trồng ở các ao nông.
Những mớ rau cần nước cây cao, thân trắng, còn
cần cạn cây ngắn có màu tía. Cả hai loại cần này đ
ều
có vị ngọt, tính mát và tất cả các bộ phận của cây
đều có tác dụng trong y học.
Thành phần dinh dưỡng và công dụng
Rau cần có các thành phần dinh dưỡng bao gồm Vitamin P, C, Abumin,
đường, Canxi, Phốt pho, Sắt, Carôtin, Axit hữu cơ.
Rau cần có tác dụng thanh nhiệt, trừ phong lợi thấp, nhuận phế, ngưng ho,
giảm áp suất máu, cao huyết áp. Với đặc tính là cung cấp nhiều chất xơ nên
rau cần có tác dụng loại trừ các chất thải có độc trong hệ tiêu hoá. Ngoài ra,
hương thơm của rau cần còn kích thích và lưu thông các tuyến mồ hôi và giảm
huyết áp.
Chữa bệnh với rau cần
- Huyết áp lên cao, thần kinh căng thẳng, đau đầu: chần qua nước sôi 250 gr
rau cần (cả thân và lá), xắt nhỏ, giã nát (xay nhuyễn), vắt nước uống, ngày
uống hai lần, mỗi lần một chén con, sẽ có tác dụng giảm huyết áp và giải trừ
cảm giác căng thẳng, khó chịu.
- Tiểu đường: Nấu cháo rau cần với gạo tẻ, ngày ăn 2 bữa vào buổi sáng và
tối, ăn nóng. Món cháo này không những làm hạ trong máu mà còn bổ thận,
thanh nhiệt, lợi tiểu, ăn trong một thời gian dài.
- Ho gà: Rau cần để nguyên rẻ, gốc, lá, giã nát, vắt lấy nước cốt, nêm vài hạt
muối, hấp cách thuỷ, ngày uống hai lần vào sáng và tối, làm trong nhiều ngày
sẽ đạt hiệu quả.
- Máu nhiễm mỡ: lấy 10 cây rau cần giã nát với 10 trái táo tàu, vắt lấy nước,
đun sôi, chia uống hai lần trong ngày, uống khoảng từ 15 - 20 ngày cho m
ột đợt
điều trị.
- Viêm gan mãn tính: lấy 200 gr rau cần, giã nát, vắt lấy nước cốt, pha thêm v
ới
50 gr mật ong, ngày uống hai lần liên tục trong một thời gian dài.
Bạch Công Tấn sưu tầm
Ké đầu ngựa - Chữa bệnh hiệu quả cao Cây ké đầu ngựa mọc hoang ở
nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, ké đầu ngựa (KĐN) mọc hoang từ
trên núi cao hàng ngàn mét (1500m) xuống đồng bằng ra bờ biển.
Ké đầu ngựa - Chữa bệnh hiệu quả cao
Cây ké đầu ngựa mọc hoang ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, ké đầu
ngựa (KĐN) mọc hoang từ trên núi cao hàng ngàn mét (1500m) xuống đồng
bằng ra bờ biển. Nó không kén đất trừ ngập úng và nhiều đá sỏi. Nó được dùng
để chữa nhiều bệnh trong Đông y. Tên Hán là Thương nhĩ tử, tên khoa học loài
có ở Việt Nam duy nhất là Xanthium strumarium. Loại cho quả to bằng ngón
chân cái gọi ké ông mới là thật tốt. Ở Việt Nam hiếm có ké ông nhưng ở Algerie
thì phổ biến với cây có chiều cao hơn 1,5m (Xanthium Italicum L).
CÂY KÉ ĐẦU NGỰA TRONG ĐÔNG, TÂY Y
Theo Đông y quả ké có tính ôn, vị ngọt, vào kinh phế, có độc. Tính năng khu
phong, trừ thấp, lợi tiểu, tiêu viêm, giảm đau, chủ trị có thể xếp vào 3 nhóm
chính: Các bệnh ngoài da, bệnh mũi xoang, bệnh xương khớp.
Theo Tây y, thành phần hóa học có nhiều iod và vitamin C (đặc biệt trong lá
47mg/100g lá). Quả non có nhiều vitamin C và các glucoza, B sintosterol và B
DglucoziDl có tác dụng chống viêm trong cũng có 2 chất đó và Stigmasteol.
Hạt ké có tỷ lệ dầu béo cao hơn 30-35%, nghiên cứu thực nghiệm cho thấy gây
giảm đường huyết của chuột bình thường, ức chế thần kinh trung ương, kháng
khuẩn gam âm, kháng nấm (dung dịch cồn, cao nước không kháng khuẩn).
Cồn rễ giảm trọng lượng khối u và tăng thời gian sống. Trong lâm sàng ứng
dụng thành phần iod để chữa các bệnh thiếu iod như bướu cổ đơn thuần.
Về độc tính của KĐN được đề cập đến trong cả Đông và Tây y. Trong các phần
trên mặt đất của cây ké chứa hỗn hợp alcaloid được coi là độc tố. Hạt có một
chất gây độc cho gia súc, trong dó có hydroquinon, cholin và một chất thứ 3
độc hơn chưa xác định được. Búp non cây ké có sách viết là rất độc. Phấn hoa
ké đầu ngựa gây dị ứng viêm mũi, viêm da co thắt phế quản, hen. Cây chỉ gây
dị ứng trước khi ra quả. Do có iod nên sẽ giảm tiết sữa của bà mẹ nuôi con.
Trong Đông y dùng cao ké đầu ngựa, không được ăn thịt lợn, thịt ngựa vì với
người mẫn cảm có thể bị nổi quầng trên da. Nhưng bệnh viện Giang Tây,
Trung Quốc chưa nhất trí vì bệnh nhân không kiêng vẫn thấy bình thường.
Đầu thập kỷ 80 công tác tại phòng Dược lý-Độc tính của trung tâm nghiên cứu
phát triển Dược Algerie, chúng tôi nghiên cứu ứng dụng cây ké đầu ngựa phục
vụ công tác phòng chữa các bệnh ngoài da và viêm mũi phổ biến ở nước bạn.
Chúng tôi nghiên cứu tính an toàn của quả ké đầu ngựa qua các chỉ tiêu quan
sát trên độc tính cấp, bán cấp hằng số nội môi (sinh hóa, huyết học) thần kinh
(trung ương và ngoại biên) và một số chỉ tiêu khác. Thực nghiệm lên chuột nhắt
và chuột cống trắng do viện Pasteur Paris cung cấp, kết quả thu được đối chiếu
chuẩn để đánh giá. Sơ bộ cho thấy quả ké đầu ngựa dạng cao lỏng (1ml ~ 1g
Bạch Công Tấn sưu tầm
dược liệu) không xuất hiện độc tính cấp, huyết học bình thường, sinh hóa hầu
hết bình thường, duy nhất chỉ tiêu SGPT trên chuột nhắt tăng cao rõ rệt. Theo
đó, cao lỏng quả ké đầu ngựa không độc trong công trình này, nhưng không
nên dùng tùy tiện.
BỆNH NGOÀI DA
1. Mụn nhọt
Cao thương nhĩ (Vạn ứng cao): Toàn cây khô nấu cao mềm, hóa nước uống
ngày 6-8g. Uống liên tục 1 tháng.
Hoàn thương nhĩ: Lấy toàn cây trừ rễ. Nấu cao đặc, tán bột, vo viên. Ngày uống
3 lần. Mỗi lần 15-20g.
2. Chốc lở ở trẻ nhỏ
Ké đầu ngựa 10g, kim ngân hoa 20g, chế thành trà thuốc đóng gói 30g. Ngày
uống 1 gói, hãm với nước sôi 500ml. Uống nhiều lần, trẻ dưới 1 tuổi uống nửa
gói.
Ké đầu ngựa 10g, bồ công anh 15g, sài đất 10g, kim ngân hoa 5g, cam thảo
đất 2g. Chế thành trà thuốc đóng gói 40g. Ngày uống 1 gói hãm nước sôi, uống
dần. Trẻ dưới 18 tháng ngày uống nửa gói.
3. Tổ đỉa
Quả ké 50g, thổ phục linh 50g, hạ khô thảo 50g, vỏ núc nác 30g, sinh địa 20g,
hạt dành dành 15g. Tán bột làm viên. Ngày uống 20-25g.
4. Nổi mày đay
Loại mày đay từng đám lặn chỗ này, mọc chỗ khác. Thương nhĩ tử 10g, kinh
giới 15g, bạc hà 15g. Tất cả rửa sạch nấu lấy nước (bỏ bã) nấu cháo.
Loại mày đay đỏ, nóng, ngứa nhiều. Hạt thương nhĩ tử 15g, sinh địa 30g, bạc
hà 12g. Nấu lấy nước uống.
5. Các bệnh ngoài da do dị ứng, chàm (của BS. Nguyễn Xuân Sơn, khoa Da
liễu Bệnh viện Việt - Tiệp) ké đầu ngựa 9kg, thổ phục linh 9kg, đường kính
19kg, cồn benzoic 10% 300ml. Nước vừa đủ 23 lít. Nếu không dùng đường thì
nấu nước, cô cao, tán bột, làm viên. Đã điều trị 124 trường hợp kết quả khỏi đỡ
nhiều đạt 92%.
6. Viêm da mủ và nhiễm trùng thứ phát (chốc, nhọt, loét sâu quảng, bối thư,
do liên cầu tụ cầu). Dùng ké đầu ngựa, kim ngân hoa, bồ công anh, thổ phục
linh, sài đất mỗi vị 30g (công thức điều trị của bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng-
Khoa truyền nhiễm). Kết quả khỏi 73,8% đỡ 18,8%. Không khỏi 7,4%.
7. Bệnh phong (cùi, hủi).
Ké đầu ngựa giã vắt lấy nước cốt cô thành cao, làm thỏi 300g, lấy 1 con cá quả
đen, mổ bụng, để ruột không bỏ, cho vào một thỏi ké. Nấu chín với rượu để ăn.
Ăn 3-5 con. Kiêng muối 100 ngày.
Các loại ké đắng, cay, thầu dầu tía, củ khúc khắc mỗi thứ 12g, lá khổ sâm, lá
Bạch Công Tấn sưu tầm
hồng hoa, lá thanh cao, lá kinh giới, sà sàng, bạch chỉ mỗi vị 8g, nam sâm 4g.
Sắc uống.
BỆNH XOANG MŨI
1. Viêm mũi xoang dị ứng: Ngạt mũi, chảy nước mũi, hắt hơi.
Thương nhĩ tử nấu lấy nước uống hoặc nấu cháo. Mũi chảy nước trong đặc:
Quả ké vàng tán bột. Ngày uống 4-8g.
2. Viêm xoang do đởm nhiệt
Triệu chứng: Chảy nước mũi đặc như mũ, mùi tanh, mất khả năng ngửi, sốt,
đau đầu, đắng miệng, hoa mắt, khô họng, ít ngủ, buồn phiền, lưỡi đỏ, rêu vàng,
mạch huyền). Dùng thương nhĩ đủ lượng vừa phải. Mật lợn vừa đủ, hoắc
hương cả cành lá 240g, tán bột mịn trộn với mật lợn làm hoàn. Ngày uống 15g,
lấy nước sắc thương nhĩ tử làm thang (bài của Ngô Khiêm đời Thanh trong Y
tông kim giám).
Viêm xoang mũi: Dùng bài thương nhĩ tử tán của Nghiêm Dung Hòa đời Tống
trong Tê sinh phương: Thương nhĩ tử 8g, tân di hoa 15g, bạc hà 3g, bạch chỉ
30g. Trà lượng vừa đủ, hành lượng vừa đủ. Tán bột mịn 4 vị trên, uống sau
bữa cơm mỗi lần 6g với nước trà và hành nấu chung. Nếu viêm xoang thời kỳ
đầu thuộc biểu chứng thì tăng lượng bạc hà. Có thể thêm cúc hoa, liên kiều,
cát căn, kim ngân hoa…
BỆNH UNG THƯ
1. Ung thư mũi: Dùng bài sau có thành phần giống bài thương nhĩ tử tán trên
nhưng khác liều lượng: Thương nhĩ tử 10g, tân di 15g, ngày 8-12g, chia 2-3
lần.
2. Ung thư não: Thương nhĩ tử 15g, thất diệp nhất chi hoa (cây 7 lá 1 hoa)
16g, viễn chi 10g, xương bồ 6g, sắc uống ngày một thang.
Các loại ung thư dùng chung bài quả hoặc lá thân thương nhĩ 20g sắc uống
ngày 1 thang. Bài thuốc chữa ung thư xương vì quá phức tạp nên không giới
thiệu.
THẤP KHỚP
1. Rượu thương nhĩ (phổ tế phương) thương nhĩ tử 30g, phòng phong 30g,
ngưu bàng tử (sao) 30g, đại sinh địa 30g, độc hoạt 30g, ý dĩ nhân 20g, nhân
sâm 15g, nhục quế 12g. Tất cả giã nát cho vào túi vải ngâm vào rượu 2 lít,
buộc kín miệng bình. Sau 1 tuần uống được, mỗi lần 1 ly. Ngày uống 2-3 lần.
2. Phong thấp chân tay co rút: Lấy thương nhĩ tử nấu nước uống. Lá đâm
nhỏ dầm rượu đắp ngoài.
CÁC BỆNH KHÁC
1. Bướu cổ đơn thuần (do thiếu iod) quả ké hoặc lá sắc nước uống hoặc hãm
nước sôi như trà để uống.
2. Đau răng: Sắc quả ké lấy nước ngậm súc miệng.
3. Cai thuốc lá, chữa mập phì: Ăn cháo hoặc nước trà thương nhĩ tử.
Bạch Công Tấn sưu tầm
4. Côn trùng, loài độc cắn: (rắn, rết, chó…) một nắm lá non đâm nhỏ vắt lấy
nước thêm ít rượu để uống bã đắp vết thương.
5. Sốt rét cơn: Dùng cao ké, viên ké đầu ngựa.
Cá trắm xào thuốc bắc - ông ăn bà khen
Cập nhật lúc 10h05" , ngày 13/03/2007
Ở phụ nữ, hưng phấn tình dục phụ thuộc nhiều vào khả
năng yêu đương của bạn tình. Việc ăn uống có vai trò
quan trọng giúp quý ông đủ sinh lực để “vượt qua thử
thách”, món cá trắm xào thuốc Bắc là một ví dụ.
Chuẩn bị
Cá trắm đen 500 g, lòng trắng trứng gà 1 quả, phục linh
50 g, sơn dược 50 g, gừng 3 g, hành hoa 10 g, muối,
giấm, rượu vừa đủ.
Phục linh và sơn dược rửa sạch, tán thành bột, rây mịn, rồi trộn với lòng trắng
trứng gà, muối, rư
ợu, để 20 phút. Cá trắm đen đánh vảy, bỏ ruột, bỏ mang, rửa
sạch, thái lát mỏng. Gừng và hành rửa sạch, hành thái khúc, gừng thái nhỏ.
Cách làm
Cho dầu vào chảo, khi dầu nóng thì cho hành và gừng vào xào thơm. Tiếp
theo, cho cá trắm vào xào đến khi thịt chín trắng thì cho tiếp hỗn hợp phục linh,
sơn dược và lòng trắng trứng vào đảo nhanh, múc ra đĩa. Ăn nóng, cách ngày
ăn 1 lần, ăn trong vòng 1 tháng.
Cá trắm đen nhiều acid amin, có tác dụng bổ thận, lợi niệu, bổ sung chuyển
hóa năng lượng tế bào, điều hòa nước và các chất điện giải trong cơ thể. Phục
linh và sơn dược rất tốt cho thận, phổi và tỳ, lại chữa chất nhày và cholin giúp
tiêu hóa đường bột nhanh hơn. Trứng gà cũng có nhiều chất cần thiết cho cơ
thể như protein, sắt, acid amin, canxi , giúp điều hòa chuyển hóa năng lượng.
Tác dụng
Sự kết hợp của cá trắm và các vị thuốc trên rất tốt cho người mất ngủ, hay
quên, váng đầu, mệt mỏi, ăn không ngon, môi lưỡi nhợt nhạt, suy giảm chức
năng tình dục; hoặc người mắc bệnh lâu ngày làm khí huyết hư hao, tinh của
thận yếu, tình dục ngày càng suy Món ăn giúp họ mạnh mẽ hơn, giảm bệnh
tật và có ham muốn trở lại.
Chú ý: Khi dùng món ăn bài thuốc này cần kiêng ăn chất béo, chất ngọt, chất
Bạch Công Tấn sưu tầm
cay, chất thơm, rượu, bia, thuốc lá.
Phong lan chữa suy nhược và yếu sinh lý
Cập nhật lúc 11h05" , ngày 21/03/2007
Lan phi điệp không chỉ đẹp mà còn giúp chữa chứng suy
nhược cơ thể hay thần kinh, đau họng, thiểu năng sinh
dục ở nam giới. Loài lan này rở rộ vào tháng 3 đến tháng
5.
Hoa lan phi điệp nở thành những chùm xinh xắn màu
trắng pha hồng, cánh môi cuộn thành hình phễu có đốm
màu tím sẫm ở họng, luôn thu hút hàng đàn ong mật. Ở
trạng thái mọc tự nhiên, nó mang tên hoàng thảo dẹt,
hoàng thảo cẳng gà, huỳnh thảo, co vàng sào (Thái). Nếu được trồng trên
những cành gỗ mục, treo ngoài gió để làm cảnh, nó lại được gọi là lan phi điệp
hay phi điệp kép.
Hằng năm, nhân dân ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Lâm Đồng
thường thu hái, chế biến lan phi điệp và đem bán cho các cửa hàng thu mua
dược liệu. Cả cây hái về, cắt bỏ rễ và lá, rửa sạch, ngâm nước, ủ cho mềm,
bóc bỏ lớp màng mỏng bên ngoài rồi phơi hoặc sấy khô. Dược liệu là những
đoạn thân hơi dẹt, có rãnh dọc, chia nhiều đốt gần sít nhau, phía cuống thuôn
hẹp, phía ngọn dày hơn, chất chắc dai, màu vàng tươi.
Cây được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là thạch hộc hay kẹp thảo.
Dược liệu đã chế biến có vị ngọt nhạt, hơi mặn, tính lạnh, không độc, có tác
dụng bổ dưỡng, thanh nhiệt, sinh tân dịch, chỉ khát. Thạch hộc được dùng
chữa hư lao, sốt nóng, khô cổ, ho, đau họng, khát nước thuộc chứng âm hư,
nóng trong, đau lưng, chân tay nh
ức mỏi, ra mồ hôi trộm, thiểu năng sinh dục ở
nam giới, di tinh, đau dạ dày, viêm ruột.
Khi dùng, đồ chín, tẩm rượu, thái nhỏ rồi hãm, sắc, tán bột hoặc làm viên u
ống.
Liều dùng hằng ngày 8-16 g. Nếu dược liệu nhiều, có thể đem đập giập, cắt
nhỏ, nấu với 3-4 lần nước, rồi cô thành cao lỏng (cứ 5 kg dược liệu được 1 lít
cao). Ngày uống 4-8 ml chia làm hai lần.
Hoa phong lan
Chữa xuất tinh sớm bằng bấm huyệt
Cập nhật lúc 14h33" , ngày 21/03/2007
Bạch Công Tấn sưu tầm
Trong y học cổ truyền xuất tinh sớm được gọi là tảo
tiết. Đây là một trong những tình trạng rối loạn xuất
tinh thường gặp nhất mà có lẽ hiếm ngưòi đàn ông nào không bị mắc một lần
trong đời. Nếu chỉ thi thoảng hoặc đôi ba lần thì chắc không thành chuyện,
nhưng thường xuyên thì quả thật đáng buồn.
Xuất tinh sớm thường dược biểu hiện dưới 4 trạng thái:
- Mới nhìn thấy ngưới phụ nữ đẹp hoặc các hình ảnh khêu gợi đã bị xuất tinh.
- Vừa mới toan hành sự, dương âm chưa gặp nhau đã xuất tinh (người xưa g
ọi
là chưa đi chợ đã hết tiền".
- Vừa chạm "của quý" vào thân thể người phụ nữ đã bị xuất tinh (dân gian gọi
là vừa đến chợ đã hết tiền).
- "Của quí" nhấp được vào "phòng" nhưng chỉ sau vài nhịp đã xuất tinh và m
ềm
xìu, khiến bạn tình và chính bản thân mình hết sức thất vọng.
Y học cổ truyền có khá nhiều phương pháp giúp khắc phục tình trạng này hoặc
cải thiện tình hình. Ngoài các biện pháp dùng thuốc (thuốc sắc, trà thuốc, cháo
thuốc, thuốc đắp, thuốc bôi, ), châm cứu, luyện tập khí công, còn có một
phương pháp đơn giản dễ thực hiên và không kém phần công dụng đó là bấm
huyệt.
Một số phương cách bấm huyệt sau:
Phương pháp 1: Cách này đòi hỏi phải có sự trợ giúp của bạn đời. Khi người
chồng bắt đầu hành sự thì người vợ dùng hai ngón tay cái bấm mạnh vào 2
huyệt nội quan của người chồng liên tục trong 10 phút.
Huyệt này nằm trên đường kinh tâm bào ở tay, trong khe của 2 gân bàn tay l
ớn
và gân bàn tay bé, trên nếp gấp cổ tay 2 thốn; có công dụng ích tâm, an thần,
hòa vị giáng nghịch, khoan hung lý khí, trấn tĩnh chỉ thốn. Chỉ cần gấp bàn tay
vào cẳng tay và nghiêng bàn tay một chút là sẽ thấy nổi rõ hai gân cơ, từ nếp
gấp cổ tay đo lên 2 thốn là thấy huyệt.
Điều quan trọng của cách này là phải xác định đúng huyệt, nếu bấm sai sẽ
không đạt được như ý muốn. Dấu hiệu cho thấy bấm đúnghuyệt là người
chồng có cảm tức, tê tại chỗ (còn gọi là đắc khí) do vậy lực bấm của người vợ
phải đủ mạnh để đạt tác dụng.
Theo các nhà nam học, xuất tinh sớm phần nhiều là do nguyên nhân tâm lí. Do
vậy để thời gian giao hợp được bình thường thì phải có sự thăng bằng nhịp
nhàng giữa quá trình hưng phấn và quá trình ức chế, quá hưng phấn có thể
dẫn đến tảo tiết. Day bấm huyệt nội quan sẽ làm giảm bớt sự nhạy cảm không
cần thiết này.
Ảnh minh họa
Bạch Công Tấn sưu tầm
Phương pháp 2: Ngoài huyệt nội quan người ta có thể day bấm một huyệt
khác cũng có tác dụng tương tự, đó là huyệt hội âm. Đây là huyệt hội của 3
mạch nhâm, xung, đốc có công dụng điều kinh cường thận, thanh lợi thấp
nhiệt, được người xưa dùng nhiều trongtrong trị liệu các chứng bệnh của hệ
sinh dục, hậu môn và tiết niệu, đặc biệt các chứng như di tinh, hoạt tinh, xuất
tinh sớm, rối loạn kinh nguyệt.
Huyệt vị này nằm ở nút đáy chậu, nơi hội tụ của các nếp da chạy từ hậu môn,
phần sinh dục ngoài và hai bên tới háng, đó cũng là trung điểm của đường nối
gốc của âm nang(bìu) với hậu môn. Khi hành sự, để tránh xuất tinh sớm người
chồng có thể tự mình hoặc nhờ người vợ dùng ngón tay chỏ hoặc ngón giữa
để bấm mạnh vào huyệt nội âm trong chừng 10 phút. Vì đây cũng là huyệt vị
rất nhạy cảm nên nếu lực bấm đủ mạnh thì cũng sẽ có tác dụng làm giảm sự
hưng phấn nhằm lập lại cân bằng thần kinh, từ đó kéo dài được thời gian giao
hợp. Huyệt này nằm gần hậu môn cho nên bộ phận này cần đư
ợc vệ sinh sạch
sẽ trước khi hành sự.
Phương pháp 3: Cách này được chia làm 2 giai đoạn:
- Trước khi hành sự: người chồng tự mình hoặc có thể trợ giúp từ người vợ
dùng ngón cái hoặc tiến hành day bấm các huyệt khí hải, quan nguyên, khúc
cốt và tam âm giao, mỗi huyệt chừng nửa phút. 3 huyệt khí hải, quan nguyên
và khúc cốt nằm ở vùng bụng dưới trên đường trục giữa.
Muốn tìm các huyệt vị này chỉ cần kẻ một đường từ rốn tới điểm giữa đường
trên xương mu, chia đường này thành 5 phần bằng nhau. Huyệt khúc cốt nằm
ở chính giữa đường trên xương mu; huyệt khí hải nằm ở điểm nối 1,5/5 trên
với 3,5/5 dưới của đoạn nối này. Cần lưu ý là khi bấm huyệt khúc cốt phải đạt
được cảm giác tê buốt chạy xuống dương vật.
Tiếp đó xoa bụng dưới theo chiều kim đồng hồ chừng 3 phút và xát đường
trắng vào dưới rốn trong một phút sao cho nóng lên là được. Tiếp tục day ấn
hai huyệt thận du và mệnh môn, mỗi huyệt 2 phút. Huyệt thận du nằm ở 2 bên
cột sống, kẻ một đường nối hai điểm cao nhất của 2 cánh chậu, đường này sẽ
đi qua mỏm gai cột sống thắt lưng 4, từ đây tìm ngược lên xác định mỏm gai
đốt sống 2, từ mỏm gai này đo ngang sang 2 bên 1,5 thốn là vị trí của huyệt.
Huyệt mệnh môn nằm ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống thắt lưng 2.
- Khi hành sự: người vợ nắm lấy bìu kéo bao tinh hoàn và tinh hoàn xuống 10
lần. Người chồng tự day bấm huyệt hội âm như phương cách thứ 2, đồng thời
khi sắp xuất tinh thì co nhíu hậu môn lên và giữ như vậy càng lâu càng tốt.
BS Bạch Long
Thận dê - thuốc cho quý ông
Bạch Công Tấn sưu tầm
Cập nhật lúc 10h17" , ngày 26/03/2007
Với nam giới, cái quý nhất của con dê là thận dê, bao g
ồm
bầu dục (nội thận) và tinh hoàn (ngoại thận). Chúng được
dùng chữa lưng đau gối mỏi, liệt dương, y
ếu sinh lý, đi tiểu
đêm nhiều lần
Một số món ăn bài thuốc từ thận dê:
Bầu dục dê 1 quả, thịt dê 60 g, kỷ tử 100 g, gạo tẻ 60-90
g, hành củ và gia vị vừa đủ. Sắc kỹ kỷ tử lấy nước, cho thận và thịt dê vào ninh
nhừ với gạo thành cháo, ăn vài lần trong ngày. Dùng trị lưng đau gối mỏi, tai ù,
di niệu do thận hư, nam giới suy giảm khả năng tình dục.
Tinh hoàn dê 1 quả, nhục thung dung 30 g. Nhục thung dung tẩm rượu một
đêm rồi thái lát, hầm cùng tinh hoàn, ăn nóng. Dùng cho những người bị liệt
dương, yếu sinh lý.
Tinh hoàn dê 1 đôi, nước hầm xương lợn 1 bát, tủy lợn một đoạn, gia vị vừa
đủ. Hầm xương lợn cùng với gia vị và tủy lợn trong 15 phút, sau đó cho tinh
hòn dê vào đun thêm chừng 3 phút, ăn nóng. Dùng chữa muộn con, liệt d
ương,
xuất tinh sớm, di tinh, đau lưng mỏi gối, suy giảm ham muốn tình dục, suy
nhược cơ thể
Tinh hoàn dê 1 đôi, nhung hươu 3 g, rượu trắng 500 ml. Ngâm chừng 15 ngày,
mỗi ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 10-20 ml, kiêng hành, gừng, tỏi và hạt tiêu.
Dùng chữa liệt dương, suy giảm ham muốn tình dục, tinh dịch lạnh loãng, suy
giảm tinh trùng
Món tiềm đại bổ âm, dương
Cập nhật lúc 10h46" , ngày 04/04/2007
Công dụng của món tiềm này là: Đ
ại bổ âm, trị chứng
liệt dương, tinh trùng yếu, đau lưng mỏi gối, da khô,
nám, đi tiểu nhiều, tiểu đêm, đổ mồ hôi trộm.
Món 1
+ Thành phần gồm: 2 quả thận dê (cật dê), 50gr tủy
sống dê, 50gr cam khởi tử, 100gr dâm dương hoắc,
20gr ba kích thiên, 20gr sa uyển tật lê, 50gr đỗ trọng
Bắc, 30gr thục địa và 4 quả đại táo.
+ Cách chế biến: rửa sạch thận dê, cắt mỏng, cam khởi tử, đại táo đập bỏ hạt
cứng, sa uyển tật lê đem sao vàng, ba kích thiên rửa rượu, bỏ tim. Cho 4 thứ
(thận, tủy dê, cam khởi tử, đại táo) vào tiềm với gia vị, gia thêm 20ml rượu. Tất
cả các vị thuốc còn lại thì cho vào túi vải và đặt vào nồi đất, cho nước, gia vị
vào vừa đủ nấu sôi độ nửa giờ, thì cho thận và tủy dê đã tiềm trên vào n
ấu đến
Bạch Công Tấn sưu tầm
chín là dùng được. Dùng cả cái lẫn nước, tuần dùng 1 - 2 lần, liên tục trong 4
tuần để có kết quả.
Công dụng của món tiềm này là: Đại bổ âm, trị chứng liệt dương, tinh trùng
yếu, đau lưng mỏi gối, da khô, nám, đi tiểu nhiều, tiểu đêm, đổ mồ hôi trộm.
Món 2
+ Thành phần gồm: 2 quả thận dê, tủy sống dê, hồng nhục sâm, cam khởi tử,
chích hoàng kỳ và đỗ trọng Bắc (mỗi thứ 50gr), cam thảo, độc quy, phụ tử,
nhục quế, xuyên ngưu tất, lão thục địa (mỗi loại 30gr) và 20gr thố ty tử.
Thố ty tử
Hoàng kỳ
+ Cách chế biến: rửa sạch thận dê, cắt mỏng. Hồng nhục sâm, độc quy và phụ
tử cắt mỏng, chích hoàng kỳ cắt mỏng, sao với mật. Cho thận, tủy dê và cam
khởi tử vào tiềm với gia vị cùng 20ml rượu. Những vị thuốc còn lại bỏ vào túi
vải rồi cho vào nồi đất, cho nước, gia vị vào vừa đủ, nấu sôi khoảng nửa giờ,
rồi cho thận và tủy dê đã tiềm vào nấu cho đến chín. Dùng cả cái lẫn nước,
tuần dùng 1 - 2 lần sẽ có công dụng đại bổ dương và chứng thận dương hư,
chủ trị chứng yếu dương sự do tuổi lớn, bị suy nhược tình dục, đau lưng mỏi
gối, chân tay thường lạnh, người mệt và hay ra mồ hôi.
Chữa tiểu đường bằng tụy lợn
Cập nhật lúc 10h13" , ngày 13/03/2007
Tụy (lá lách) của lợn một cái nấu với 50 g râu ngô, mỗi ngày một thang, ăn tụy,
uống nước. Một liệu trình kéo dài 10 ngày. M
ột số món ăn khác từ tụy lợn (heo)
có thể hỗ trợ chữa bệnh tiểu đường.
Canh tụy hạt sen: Tụy heo 200 g, thịt nạc heo 50 g, hạt sen tươi 50 hạt. Tụy
và thịt thái nhỏ trộn gia vị để ngấm. Hạt sen tươi bóc vỏ bỏ tâm cho vào n
ồi đun
sôi với lượng nước vừa đủ. Cho thịt, tụy vào nước nấu sen đang sôi. Nấu chín,
ăn cái uống nước.
Tụy heo bột sắn dây: Tụy heo 1 cái, bột sắn dây 100 g. Nấu nước tụy heo để
Bạch Công Tấn sưu tầm
nấu bột sắn dây. Ăn ngày 2 lần. Ăn hằng ngày, liều lượng tùy ý.
Tụy heo mạch nha: Tụy heo khoảng 150 g, mạch nha 300 g. Thêm nước nấu,
uống nước ăn cái. Ngày 2 lần.
Tụy heo hoài sơn, ý dĩ: Tụy heo 1 cái, hoài sơn 120 g, ý dĩ 30 g, hoàng kỳ 60
g. Nấu 3 vị thuốc lọc lấy nước bỏ bã rồi cho tụy vào nấu nhừ, ăn cái uống
nước.
Cháo tụy heo, củ cải tươi: Tụy 1 cái thái nhỏ xào tái trước. Củ cải tươi 250 g,
gạo 100 g. Nấu cháo củ cải nhừ rồi cho tụy vào nấu sôi lại để ăn nóng.
Có thể xào tụy với hẹ hoặc rau khoai, rau cần, rau muống, mướp đắng, hành
tây, nấm hương, mộc nhĩ, cà rốt, cà chua, bí ngô (bí đỏ), bí đao (cả vỏ xanh),
măng tươi (đã luộc kỹ).
(Theo SK & ĐS)
Công dụng của Bọ ngựa Dùng chữa các chứng bệnh ra mồ hôi trộm, di
tinh, liệt dương, đau lưng, phụ nữ khí hư, người già đái són, đái rắt, trẻ
em đái dầm
Công dụng của Bọ ngựa
Tên khoa học: Con bọ ngựa = Tendorasinensis Saussure – Con bọ ngựa
(Mantidae).
Tên khác: Tang phiêu tiêu (Trung Quốc) – Nid de mante religieuse (Pháp) –
Egg capsule of Mantid (Anh).
Bộ phận dùng: Tang phiêu tiêu (Ootheca Mantidis) là tổ có trứng của nhiều
loài Bọ ngựa.
Dược điển Trung Quốc 1963 và 1997 có ghi nhiều loại bọ ngựa mà tổ được
dùng làm thuốc: Tenodera sinensis Saussure; Statilia maculata Thunb;
Hierodula patellife Serrille; Mantis religiosa L., đều thuộc họ Bọ ngựa
(Mantidae).
Tổ bọ ngựa thường gặp ở cây dâu nên gọi là Tang phiêu tiêu.
Mô tả: Con bọ ngựa là một loài côn trùng, thân hình màu xanh lục, cánh màng
mềm, đầu nhỏ, cổ dài thường nghển cao, đặc biệt có hai chân trước ta, khỏe
Bạch Công Tấn sưu tầm
hơn mà Bọ ngựa thường múa như hai lưỡi dao.
Thu hoạch chế biến: Thu hoạch từ cuối mùa thu đến đầu mùa xuân năm sau,
lấy các tổ bọ ngựa còn có trứng bên trong, tách bỏ cành cây, đem đồ thật kỹ
trong nửa giờ cho chín rồi đem phơi hoặc sấy nhẹ lửa cho khô. Nếu không đồ
kỹ, trứng chưa chín, mùa xuân có thể nở thành con bọ ngựa thì vị thuốc mất
hiệu lực.
Tang phiêu tiêu mùi hơi tanh, vị nhạt hay hơn mặn. Loại tổ bọ ngựa khô, xốp
nhẹ, màu vàng, óng ánh, còn trứng, không lẫn cành cây, sạch đất, không sâu
mọt là tốt.
Thành phần hóa học: Hiện nay còn chưa chưa rõ hoạt chất của tang phiêu
tiêu, chỉ mới biết là có chứa các chất protid chất béo, caroten, sắt, calci.
Công dụng: Theo Đông y, Tang phiêu tiêu vị mặn ngọt, tính bình, không độc,
vào 2 kinh Can,Thận.
Có tác dụng bổ thận, giữ tính khí, giữ mồ hôi.
Dùng chữa các chứng bệnh ra mồ hôi trộm, di tinh, liệt dương, đau lưng, phụ
nữ khí hư, người già đái són, đái rắt, trẻ em đái dầm.
Liều dùng: 5 – 10g, sắc hoặc tán thành bột uống.
Lưu ý: Người thuộc chứng âm hư hỏa vượng, có nhiệt ở bàng quang, bí đái
không được dùng.
Bài thuốc:
Bài số 1: Tang phiêu tiêu tán: An thần, định trí, chữa bệnh hay quên, người
mệt, đái rắt:
Tang phiêu 5g
Phục linh 5g
Thạch xương bồ 5g
Đương quy 5g
Viễn chi 5g
Nhân sâm 5g
Quy bản 5g
Cam thảo 5g
Nghiền mịn, uống với nước Nhân sâm trước khi đi ngủ.
Bài số 2: Chữa yếu thận, di tinh, xuất tinh quá sớm:
Tổ bọ ngựa 10 cái
Đường trắng 10g
Tổ bọ ngựa sao tồn tính, tán bột, trộn với đường. Uống tất cả làm 1 lần trước
khi đi ngủ, uống liền 3 – 5 ngày.
Bạch Công Tấn sưu tầm
Bài số 3: Chữa chứng bụng dưới lạnh, đái rắt, đái dầm, đái vãi không hãm
được.
Tổ bọ ngựa 15g
Ích trí nhân 15
Tán bột, chia làm 2 lần, uống trong 1 ngày.
Ngày 30/06/2005
Theo sách "Cây thuốc, bài thuốc và biệt dược" - Nhà xuất bản Y học
Truyền thuyết về cây nhân trần
Cập nhật lúc 10h02" , ngày 09/04/2007
Danh y Hoa Đà từng bó tay trước một ca bệnh nặng. Một
năm sau gặp lại, ông thấy cô gái này rất khỏe mạnh, tươi
tắn. Hỏi ra, khi đào rau núi ăn cho qua đợt đói kém, cô đã
tình cờ ăn một loài cây, đó là nhân trần.
Chuyện xưa kể rằng: Vào mùa xuân năm ấy, có một nữ
bệnh nhân tìm gặp danh y Hoa Đà để chữa bệnh. Nhìn
thân hình gầy như que củi, sắc mặt vàng vọt, niêm mạc
hai mắt mang màu mơ chín, Hoa Đà tiên sinh biết rằng cô
gái này bị chứng "hoàng lao bệnh" hay "hoàng đản bệnh",
căn bệnh mà ngày nay y học hiện đại gọi l
à viêm gan vàng
da. Thời đó, chứng bệnh này chưa có cách chữa nên Hoa Đà đành nói: "Căn
bệnh này tôi không chữa được, cô hãy về đi!". Cô gái nghe vị danh y nói vậy
đành ngậm ngùi trở về nhà và cũng không nghĩ chuyện đi tìm thầy khác chữa
bệnh nữa.
Một năm trôi qua, tình cờ gặp lại, nhìn thấy cô gái thân hình béo tốt, sắc mặt
hồng hào, dáng đi nhanh nhẹn, Hoa Đà rất đỗi ngạc nhiên, hỏi: "Cô đã tìm
đư
ợc ai để chữa bệnh vậy?". Cô gái lắc đầu: "Không ạ, cháu không uống thuốc
của ông lang nào cả". Hoa Đà lại hỏi: "Vậy có tự dùng thuốc gì không?". Cô gái
đáp: "Không, cháu cũng không dùng thuốc gì cả".
Hoa Đà tiên sinh trong lòng đầy nghi ngờ, tự hỏi: Bệnh nặng mà không dùng
thuốc thì làm sao có thể khỏi được? Vì vậy, ông lại gặng hỏi: "Cô thử nghĩ kỹ
xem, hằng ngày ngoài việc dùng cơm có còn ăn thứ gì khác nữa không?". Cô
gái đáp: "Không ạ. Mấy năm nay đói kém, cơm gạo chẳng đủ, cháu phải l
ên núi
hái rau dại để ăn". Nghe vậy, Hoa Đà vội nhờ cô gái dẫn đi xem loại rau đó. Th
ì
ra đó chính là hoàng cao đầu, một vị thuốc khá quen thuộc.
Từ đó trở đi, Hoa Đà chú tâm nghiên cứu khả năng chữa trị của hoàng cao đối
với chứng bệnh viêm gan vàng da. Nghe theo lời khuyên của ông, hầu hết
bệnh nhân đều khỏi chỉ bằng việc dùng hoàng cao làm rau ăn trong một tháng.
Bạch Công Tấn sưu tầm
Tuy nhiên, một lần, một bệnh nhân mặc dù đã làm đúng theo lời Hoa Đà dặn,
ăn rau thuốc mấy tháng liền mà bệnh vẫn không khỏi. Hoa Đà tìm gặp và hỏi:
"Ngoài việc dùng hoàng cao ra anh có ăn thứ gì khác không?". Ngư
ời bệnh nói:
"Không ạ, cháu chỉ uống nước trắng thôi". Hoa Đà lại hỏi: "Vậy anh ăn hoàng
cao vào thời gian nào?". Người bệnh đáp: "Vào khoảng trước sau tiết Thanh
minh".
Sau nhiều ngày suy ngẫm, vị danh y chợt nhận ra rằng: Mùa xuân là giai đoạn
dương khí thượng thăng, cây cối đâm chồi, trăm hoa đua nở, sức thuốc tập
trung ở thân và cành nên chữa bệnh có hiệu quả cao, từ đầu hạ trở đi cây cối
ra lá và mọc cành mới, dược lực phân tán nên trị liệu ít kiến hiệu. Năm sau,
trước tiết Thanh minh, ông tự mình lên núi lấy hoàng cao về cho người bệnh
này ăn, quả nhiên chỉ sau một tháng, bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, dùng thêm
một tháng nữa bệnh cơ bản khỏi.
Hoa Đà mừng khôn xiết và từ đó, cứ vào 3 tháng đầu năm, ông thường lên núi
thu hái hoàng cao về tích trữ dùng dần. Sau này, để tránh nhầm lẫn, ông đặt
cho cây thuốc này một cái tên mới gọi là "nhân trần".
Cách dùng trà nhân trần
Nhân trần 30g thái vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút có thể
dùng được, pha thêm một chút đường phèn uống thay trà trong ngày, dùng
phòng bệnh do thấp nhiệt gây ra, điều trị viêm gan cấp và mạn tính.
Nhân trần 300g, sinh địa hoàng 60g , trà 30g. Ba vị tán vụn, mỗi ngày lấy 30g
hãm với nước sôi trong bình kín, sau 10-15 phút có thể dùng được, uống thay
trà trong ngày. Dùng để chữa viêm gan vàng da cấp tính.
Bạch hoa xà thiệt thảo 500g, nhân trần 150g, sinh cam thảo 50g. Tất cả thái
vụn, mỗi ngày lấy 60g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút có thể
dùng được, uống thay trà trong ngày. Dùng chữa viêm gan vàng da c
ấp tính có
sốt.
Mạch nha 500g, nhân trần 500g, quất bì 250 g. Tất cả sấy khô tán vụn, mỗi
ngày dùng 60g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được,
uống thay trà trong ngày. Dùng trị viêm gan giai đoạn di chứng có rối loạn tiêu
hóa, chán ăn, đầy bụng chậm tiêu.
Râu ngô 300g, nhân trần 150g, bồ công anh 150g. Tất cả tán vụn, mỗi ngày
dùng 50 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống
thay trà trong ngày. Dùng để phòng chống viêm gan, viêm túi mật, sỏi mật
Ba ba - món ăn chữa bệnh
Bạch Công Tấn sưu tầm
Cập nhật lúc 10h34" , ngày 24/04/2007
Thịt ba ba rất tốt cho người tạng nhiệt, nóng trong, mồ hôi
ra nhiều, hoặc người bị viêm gan mạn tính, tiểu đường,
phụ nữ rong huyết, nam giới yếu thận, di tinh…
Theo dinh dưỡng học cổ truyền, thịt ba ba vị ngọt, tính
bình, dùng làm thức ăn bổ dưỡng cho người tạng nhiệt,
nóng trong; chữa băng huyết, rong kinh, khí hư. Th
ịt ba ba
rất thích hợp cho người bị bệnh lao viêm gan mạn tính, x
ơ
gan, đái đường, viêm thận, các bệnh lý ác tính sau khi dùng hóa trị liệu, nam
giới thận yếu thuộc thể Can thận âm hư (người gầy, hay hoa mắt chóng mặt,
nóng sốt về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, vã mồ hôi trộm, di mộng
tinh, táo bón ).
Những người nào không nên dùng ba ba?
Nhìn chung, phụ nữ có thai và những người có thể chất hư hàn không nên ăn
nhiều thịt ba ba, nếu dùng thì phải phối hợp với các gia vị có tính ấm nóng và
có công dụng kích thích tiêu hóa. Tỳ vị hư hàn biểu hiện bằng các triệu chứng:
Người gầy, sắc mặt nhợt nhạt, dễ mệt mỏi, bụng đầy, chậm tiêu, miệng nhạt,
chán ăn, tay chân lạnh và mỏi, đại tiện lỏng, nát hoặc sống phân, chất lưỡi
nhợt và có vết hằn răng…
Theo kinh nghiệm dân gian, không nên ăn thịt ba ba với kinh giới vì sẽ sinh lở
ngứa.
Một số bài thuốc dùng ba ba chữa bệnh
* Ba ba 1 con, kỷ tử 30 g, hoài sơn 30 g, nữ trinh tử 15 g. Ba ba làm sạch, chặt
miếng, đem hầm nhừ cùng với các vị thuốc, khi chín bỏ bã thuốc, chế thêm gia
vị, ăn nóng.
Công dụng: Chữa chứng can thận hư tổn, lưng gối đau mỏi, đầu choáng, mắt
hoa, di tinh…
* Ba ba một con, tri mẫu, bối mẫu, ngân sài hồ, hạnh nhân mỗi thứ 15 g. Ba ba
làm sạch, chặt miếng, đem hầm nhừ cùng với các vị thuốc, khi chín bỏ bã
thuốc, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần.
Công dụng: Dưỡng âm thanh nhiệt, nhuận phế chỉ khái, dùng để chữa các
bệnh lý đường hô hấp như viêm họng, viêm phế quản mạn tính, lao phổi, lao
xương khớp.
* Thịt ba ba 50 g, râu ngô 5 g, sơn tra 4 g, hồng táo 2 quả, gừng tươi 1 g, gia v
ị
và nước vừa đủ. Thịt ba ba thái miếng, râu ngô rửa sạch, sơn tra bỏ hạt thái
Bạch Công Tấn sưu tầm
mỏng, táo bỏ hạt, gừng thái chỉ. Tất cả cho vào nồi hầm nhừ, khi chín bỏ râu
ngô, ăn cả cái và nước.
Công dụng: Dưỡng âm bổ huyết, làm giảm mỡ máu và hạ huyết áp.
* Mai ba ba 30 g, chim bồ câu 1 con, rượu vang một chút và gia vị vừa đủ. Mai
ba ba sấy khô, tán bột cho vào bụng chim bồ câu đã làm sạch cùng với rượu
và gia vị, hấp cách thủy cho thật nhừ, ăn trong ngày.
Công dụng: Chữa kinh nguyệt bế tắc do cơ thể suy nhược.
* Ba ba 1 con (chừng 600-800 g), đông trùng hạ thảo 10 g, đại táo 10 quả,
gừng 2 lát, nước luộc gà 1 bát con, hành, tỏi và gia vị vừa đủ. Ba ba làm thịt,
thái miếng, cho vào nồi hầm cùng với các nguyên liệu khác cho thật nhừ, khi
chín nêm đủ gia vị, ăn nóng.
Công dụng: Bổ can thận, ích khí dưỡng huyết, tăng cường sức lực, dùng làm
món ăn bồi bổ cho nam giới.
Công dụng của Râm bụt kép Theo Đông y, hoa râm bụt kép vị ngọt, tính
bình, có tác dụng trừ thấp nhiệt, làm mát máu, chữa viêm niêm mạc dạ
dày và ruột, chẩy máu đường ruột, lỵ, phụ nữ bạch đới, chữa cả nôn
mửa, ỉa chảy
Công dụng của Râm bụt kép
Tên khoa học: Hibiscus syriacus L. – họ Bông (Malvaceae).
Tên khác: Bụp hồng cận – Mộc cận (Trung Quốc)
Bộ phận dùng: - Hoa tươi hoặc đã chế biến khô của cây râm bụt kép (Flos
Hibisci syriacus) còn gọi là Mộc cận hoa (Trung Quốc).
- Vỏ rễ đã chế biến khô (Cortex Radicis Hibisci syriacus) còn gọi là Xuyên
cận bì (Trung Quốc).
-
Mô tả: Cây râm bụt kép cao 3 – 6m, cành nhẵn, lá hình thoi, chia làm 3 thùy,
mép có răng thưa, cuống lá rất ngắn, có lông. Lá mọc cách, dài 4-7cm, rộng
2,5-5cm. Hoa mọc đơn độc mầu trắng, hồng hay tím. Hoa 5 cánh, nhiều nhị
dính thành một trụ. Quả nang hình trứng có 5 ngăn, hạt hình thận có lông tơ.
Mùa hoa: tháng 6 – 7.
Mùa quả: tháng 8 – 10.
Cây râm bụt kép được trồng khắp nơi làm cảnh, làm hàng rào ở nước ta.
Các nước lân cận cũng có.
Thu hái chế biến: Hoa, thu hái khi mới nở, phơi khô hoặc để tươi dùng (hoa
trắng được coi là tốt hơn).
- Vỏ rễ: vào mùa thu, đào rễ rửa sạch lột vỏ, phơi khô.
-