Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

iệp khúc trong thơ Edgar Allen Poe pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.1 KB, 16 trang )

Điệp khúc trong thơ Edgar Allen Poe

Adgar Allen Poe viết bài thơ Con quạ (The raven) vào năm 1845. Đây
là một câu chuyện được kể lại bằng thơ, nó đã trở nên rất nổi tiếng ngay
sau khi đăng đàn. Nội dung của Con quạ có thể tóm lược như sau. Vào một
đêm đông lạnh lẽo, trong một thư phòng cổ kính một chàng trai (được viết
từ ngôi thứ nhất) thương tiếc người tình vừa qua đời. Bỗng nhiên chàng
nghe tiếng đập cửa. Lúc đầu chàng tưởng có khách nhưng thực ra là tiếng
đập cánh của một con quạ ngoài cửa sổ. Con quạ lạ lùng, cổ quái như bay
đến từ thế giới khác. Nó đáp lại mọi câu hỏi của chàng trai bằng từ duy nhất
"nevermore" (không bao giờ nữa). Đây cũng chính là điệp khúc bất hủ của
bài thơ. Một năm sau, Poe viết tiểu luận Triết lý về soạn tác (The philosophy
of composition)
(1)
, trong đó ông đã viết lại kỹ luỡng quá trình sáng tác
bài Con quạ. Những dòng viết liên quan đến điệp khúc "nevermore" là
những trang viết độc đáo, công phu và cũng được trích dẫn nhiều nhất trong
bài viết đó. Không những thế, nó còn được trích dẫn trong những tiểu luận
của nhiều văn nhân kiệt xuất như Charles Baudelaire, Jorge Luis Borges,
Tzavetan Todorov

Trong Triết lý về soạn tác, Poe nhiều lần nhắc đến từ refrain, tiếng Việt
có nghĩa là điệp khúc. Sử dụng điệp khúc cũng như sáng tạo ra nội dung
của điệp khúc là một thủ pháp quen thuộc trong sáng tác văn học nhưng
Edgar Allen Poe là nhà thơ đầu tiên mô tả rất kỹ lưỡng quá trình sáng tạo
điệp khúc, đó là điệp khúc "nevermore" bất hủ trong bài Con quạ. Xác định
được độ dài, lĩnh vực và giọng của bài thơ, Poe đã suy tính đến việc đạt
được một kích động nghệ thuật gắt gao nào đó, có thể đem sử dụng như là
một chủ âm trong sự kết cấu bài thơ, biến nó thành "một cái trục nào đó mà
toàn bộ cấu trúc có thể xoay quanh đó". Sau khi cân nhắc khá kỹ những
"mánh lới" có thể sử dụng để đạt được "những hiệu quả nghệ thuật thông


dụng" Poe thấy ngay rằng không một mánh lới nào lại được dùng phổ biến
như điệp khúc. Poe cho rằng ấn tượng của điệp khúc phụ thuộc vào sự đơn
điệu trong cả âm thanh lẫn tư tưởng. Và tốt nhất điệp khúc phải ngắn vì một
câu dài mà đem biến thức liên tục thì sẽ là một khó khăn không thể vượt
qua, chính vì thế điệp khúc phải là một từ đơn. Và đây là một bài thơ nhiều
khổ thì điệp khúc sẽ là từ kết thúc mỗi khổ thơ. Mà một từ khép lại mỗi khổ
thơ phải có sức mạnh ngân vang và gây được độ nhấn kéo dài. Từ những
suy tính trên Poe đã chọn âm O vì nó là nguyên âm vang nhất và kết hợp
với phụ âm r sẽ tạo thành một âm ngân vang lý tưởng. Sau khi xác định
được âm của điệp khúc thì phải lựa chọn từ sao cho vừa biểu thị âm vừa
phải đồng điệu với giọng thơ sầu muộn đã đề ra từ trước. Sau khi tìm tòi với
những điều kiện như vậy Poe thấy rằng "tuyệt nhiên không thể nào bỏ qua
từ "Nevermore"". Trên thực tế thì đây chính là từ đầu tiên hiện ra trong đầu
ông. Có thể coi điệp khúc "Nevermore" là một sáng tạo tuyệt vời nhất trong
bài thơ. Từ này khi ngân lên vừa âm u, sầu muộn lại vừa tuyệt vọng, nhất là
lại được bật lên từ một con quạ lạ lùng, cổ quái. Nó chính là linh hồn của bài
thơ. Không phải vô cớ một tờ báo thời đó nhận định rằng nhiều độc giả đã
"rùng mình bởi tiếng kêu kỳ lạ, huyền bí Nevermore". Điệp khúc này có vẻ
như là một ý tưởng xuất thần nhưng nó lại là hệ quả của một quá trình tính
toán rành mạch như Poe đã trình bày rất cụ thể
(2)
.

Thực ra đây không phải là lần đầu tiên từ "Nevermore" xuất hiện trong
thơ Poe. Trước đấy hai năm Poe đã dùng từ "Nevermore" trong một bài thơ
có tên là Lenore, cũng là những lời thơ thương tiếc nàng Lenore vừa qua
đời nhưng từ "Nevermore" chỉ được sử dụng một lần duy nhất trong câu:

And, Guy de Vere, hast thou no tear? - weep now or never more!
(3)

(Và, Guy de Vere, ngươi không trào nước mắt ư? - than khóc bây giờ
hoặc không bao giờ nữa)

Còn ở bài Con quạ điệp khúc này xuyên suốt 11 khổ thơ cuối cùng,
bắt đầu từ khổ thứ tám khi chàng trai hỏi tên con quạ:

Con quạ khủng khiếp và cổ lỗ bay lang thang thoát khỏi bờ Đêm
Cho ta biết quí danh nơi bờ Đêm địa ngục
Lời quạ kêu lên, "Không bao giờ nữa"

Bảy khổ thơ đầu thì những từ khép lại mỗi khổ thơ cũng có âm tương
tự như "Nevermore" đó là "Nothing more" (Không có gì nữa) và "Ever more
(cũng có nghĩa là Không bao giờ nữa). Thí dụ câu kết của khổ thơ thứ hai:

Nameless here for evermore
(Chẳng bao giờ còn tên nơi đây nữa)

Như vậy là Poe đã sử dụng biến tấu của điệp khúc ở phần đầu bài
thơ, đây cũng là cách dần dần gợi mở dẫn dắt câu chuyện đi đến đỉnh điểm.
Và bản thân những biến tấu này cũng không khác lắm với điệp khúc chính.
Ấn tượng của điệp khúc phụ thuộc vào sự đơn điệu trong cả âm thanh lẫn
tư tưởng. Có thể thấy rõ là ông có ý thức duy trì "sự đơn điệu của âm" còn
sự đơn điệu về tư tưởng của điệp khúc ông cố gắng biến tấu thường xuyên,
có nghĩa là Poe đã "quyết định liên tục sản sinh những hiệu quả nối tiếp
bằng cách biến tấu việc ứng dụng điệp khúc".

Để cho từ "Nevermore" vang lên 11 lần mà không gây ra sự nhàm
chán, đơn điệu Poe phải đặt nó vào 11 khổ thơ thể hiện những trạng thái
cảm xúc khác nhau: ngạc nhiên, tò mò, thích thú, mê tín, sợ hãi, phẫn nộ
Và những câu trả lời "Nevermore" đơn điệu của con quạ phải cộng hưởng

mạnh mẽ với những câu hỏi từ bỡn cợt cho đến nghiêm túc, thậm chí
nghiêm trọng của chàng trai. Tất cả sự bố cục, dàn dựng này đã thể hiện
năng lực kể chuyện cũng như xây dựng câu chuyện của Edgar Allan Poe.

Trong quá trình sáng tác Poe cũng gặp khó khăn tìm một cái cớ cho
việc sử dụng liên tục từ "Nevermore". Ông nhận thấy rằng nếu cứ giả định
kẻ thốt lên từ này là một sinh thể "có tính người" thì sẽ khó khăn trong việc
"dung hoà sự lặp từ đơn điệu với hoạt động lý trí của sinh thể lặp đi lặp lại
từ này". Vì thế tốt nhất là sử dụng một sinh thể không có năng lực suy lý mà
có thể nói được như là con vẹt chẳng hạn. Nhưng hình ảnh con vẹt ngay lập
tức được thay thế bởi hình ảnh con quạ, nó cũng có khả năng nói được như
vậy nhưng "xét về mặt phù hợp với cái giọng (sầu muộn) đã được dự định
thì đạt hơn muôn phần".

Sau khi tìm được điệp khúc và lựa chọn được sinh thể sử dụng điệp
khúc, Poe tiếp tục tìm cách "đạt tới độ cao tột đỉnh (supremeness)". Ông cho
rằng cái chết của một người đàn bà đẹp là chủ đề sầu muộn nhất và cũng
chứa chan thi hứng nhất. Tới giai đoạn này Poe lại tìm cách tổ hợp hai ý
tưởng, ý tưởng một kẻ si tình than khóc cô bạn gái đã qua đời và ý tưởng
con quạ liên tục lặp lại từ "Nevermore". Ông nhận thấy "phương thức duy
nhất hợp lý cho một sự tổ hợp như vậy là sự tưởng tượng con quạ dùng từ
này trả lời những câu hỏi của kẻ si tình". Thuật "biến thức cách vận
dụng" (variation of application) được sử dụng triệt để. Đọc bài thơ chúng ta
có thể nhận thấy câu hỏi đầu tiên của chàng trai để nhận được câu trả lời
"Nevermore" của con quạ là một câu hỏi tầm thường - câu hỏi thứ hai lại
tầm thường hơn - câu hỏi thứ ba càng tầm thường hơn nữa và cứ như vậy -
cho tới khi sau một chuỗi dài kẻ si tình "bừng tỉnh thoát khỏi trạng thái uể
oải ban đầu do tính chất sầu muộn của bản thân từ này - do sự lặp đi lặp lại
- và do sự nghĩ ngợi về tai tiếng điềm gở của con quạ thốt ra từ này - và cứ
thế dần dà anh ta đi đến sự mê tín và rồ dại đưa ra những câu hỏi mang

một tính chất khác hẳn. Những câu hỏi mà sự giải quyết anh ta nung nấu
tận đáy lòng - anh ta đưa ra những câu hỏi này có phần như là mê tín và có
phần như là trạng thái tuyệt vọng, một thứ khoái cảm trong sự tự hành hạ.
Anh ta đưa ra những câu hỏi không hoàn toàn vì anh ta tin ở tính chất báo
gở và tính chất quỷ quái của con chim (lý trí khiến anh ta tin rằng con quạ
chỉ lặp đi lặp lại một bài học thuộc lòng) mà vì anh ta thích thú đến điên
cuồng đặt ra những câu hỏi sao cho nhận được ở từ "Nevermore" mà anh
ta mong đợi nỗi u buồn ngọt ngào nhất vì chưng khó chịu đựng nhất"
(4)
.

Từ điệp khúc "nevermore" và cái cách Poe gọi con quạ là biểu hiệu
của "Hồi ức đau buồn và bất tận", nhà phê bình Kenneth Silverman (Mỹ) đã
đưa ra nhận định: "Tình huống kịch tính trong bài thơ là xung đột giữa Nhớ
và Quên". Chàng trai kia cố gắng lãng quên Lenore nhưng không thể. Quá
khứ đau buồn cứ ám ảnh mãi. Poe đã tinh tế nhấn chìm bài thơ vào một
không gian cổ kính, hoài niệm. Ông cố tình tạo ra hình ảnh một con quạ cổ
lỗ đến từ những "ngày thiêng xưa cũ", những chồng sách chứa đựng
"những tri thức đã bị lãng quên". Ngoài ra ông còn sử dụng nhiều từ tiếng
Anh cổ như quoth (đã nói), methought (đối với tôi), surcease (sự dừng).
Không những điệp khúc "nevermore" mà cách lặp lại âm, nhịp thậm chí láy
từ toàn phần như "rapping, rapping," (vỗ cánh, vỗ cánh), "tell me - tell me"
(kể với ta - kể với ta) hay "still is sitting, still is sitting" (vẫn ngồi - vẫn ngồi)
cũng kịch hoá sự ám ảnh quá khứ của chàng trai. Không những thế những
thủ pháp này còn khiến độc giả cũng như bị chìm trong nỗi ám ảnh đó.
Chính vì vậy Nathaniel Parker Willis cho rằng bài thơ đã "xuyên thẳng vào
ký ức người đọc". Từ hành động chàng trai gặng hỏi con quạ nhiều lần để
được nghe câu trả lời "Nevermore", từ đó cảm nhận "nỗi u buồn ngọt ngào
nhất vì chưng khó chịu đựng nhất" - "một thứ khoái cảm tự hành hạ", giáo
sư Silverman cho rằng chi tiết này có thể phản ánh một quan niệm khác của

Poe: Người chết chỉ được yên nghỉ khi họ vẫn còn trong trí nhớ của những
người đang sống. Nếu quên lãng, họ sẽ trở về cõi trần trong sự giận dữ.
Quên đi những người đã khuất là mang tội bất trung và phải chịu sự trả thù
của họ. Từ điểm nhìn này bạn đọc sẽ thấy chàng trai si tình kia không
những bất lực khi cố gắng ngừng nhớ thương bạn gái mà còn mang một nỗi
sợ, sợ quên đi người đã khuất
(5)
.

Trong bài tiểu luận của mình Poe đã không nói gì đến những tác phẩm
đã khơi gợi cảm hứng khi sáng tác bài thơ Con quạ. Năm 1826 William
Henry Leonad đã công bố một bài thơ với điệp khúc: "I'll ne'er forget - no -
never" (Tôi sẽ không bao giờ quên - không - không bao giờ). Có người còn
cho rằng cái tên Leonor rất có thể liên quan đến Leonad và điệp khúc
"nevermore" được nảy sinh từ câu thơ điệp khúc trên. Trước khi bài
thơ Con quạ ra đời năm năm, một tạp chí của Anh cho đăng một bài ballad
có tên The Raven; or The Power of Conscience (Con quạ; hay sức mạnh
của lương tâm). Con quạ ở đây không kêu "Nevermore" như trong bài thơ
của Poe mà kêu lên tên của người đã chết: "He croaks of my dead brother
still" (Nó vẫn kêu tên người anh trai quá cố của tôi)
(6)
.
Trong quá trình sáng tạo, ảnh hưởng từ những tác phẩm khác là
đương nhiên, vấn đề là ở chỗ tác phẩm đó đạt đến mức độ thành công
nào. Con quạ đã trở nên nổi tiếng ngoài sức tưởng tượng của tác giả, bài
thơ này đã làm lu mờ những tác phẩm cung cấp chất liệu cho Poe khi sáng
tác nó.
Bài thơ Con quạ thể hiện những sáng tạo lớn của Poe trong quá trình
ứng dụng thi luật. Nhưng phải đến Những quả chuông (The bells), bài thơ
cuối cùng, thì sự cách tân về thi pháp của Poe mới đạt đến đỉnh điểm. Từng

dòng, từng chữ ngân lên vang vọng, tưởng chừng như được cuốn theo
những hồi chuông biến ảo, khi rộn ràng tràn ngập niềm hoan lạc, khi lảnh lót
inh ỏi như những tiếng la hét hãi hùng. Điệp khúc "bells" của nó tuy âm
hưởng chưa đạt tới "quỷ khóc thần sầu" như "nevermore" của Con
quạ nhưng cũng khiến nhiều bạn đọc sửng sốt. Đó cũng là lý do khiến bài
thơ này được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc.

Bài thơ chia làm bốn đoạn tương ứng với những giai điệu chuông
khác biệt: Chuông bạc, chuông vàng, chuông đồng thau, chuông sắt. Đầu
tiên là những quả chuông bạc. Mỗi khi tiếng chuông ngân lên thì “ những vì
sao lấm tấm rải khắp những vùng trời với một niềm vui trong suốt pha lê"
Những quả chuông vàng kế tiếp cũng dự báo một thế giới hạnh phúc bằng
âm hưởng như được rung lên từ "những âm thanh vàng tan chảy". Nhưng
phần cuối của đoạn này tiếng chuông bắt đầu hối hả hơn, như "một luồng
âm ngọt ngào vọt trào lênh láng". Đoạn thứ ba, những quả chuông đồng
thau báo nguy đột ngột xuất hiện. Chúng kể về một "câu chuyện rùng rợn"
tràn ngập những tiếng la hét sợ hãi. Nhịp chuông trở nên kỳ quái, điên đảo
với những âm thanh ầm ĩ chói tai. Đoạn cuối cùng: Những quả chuông sắt.
Thanh âm của chúng như những "lời ai điếu ngân nga một thế giới trầm tư
xiết bao trang nghiêm". Phần cuối đoạn thơ này cũng là phần kết thúc bài
thơ đã khiến độc giả hết sức bất ngờ. Tác giả hé lộ bí mật về những hồi
chuông rùng rợn, quái gở kia. Đó chính là hoà âm của quỉ, những con quỉ
ngự trên gác chuông. Và vua quỉ chính là kẻ đã gióng chuông để tạo tác một
bài tụng ca bằng một tiết tấu tà ma, hoan lạc. Chẳng rõ, sau khi viết Những
quả chuông Poe có dự tính được một chiều hướng nhận thức khác từ phía
độc giả? Nếu đắm mình theo những câu thơ rất giàu vần điệu lại được nhả
ra theo thứ nhịp phách tự do phóng túng, điên đảo chẳng khác nào nhịp đập
của một trái tim bất ổn, đặc biệt là điệp khúc bells, thì nhiều độc giả sẽ cảm
nhận vua quỷ chính là tác giả bài thơ, người đã gióng lên bản hoà điệu
chuông ngôn từ thần diệu và mãnh liệt.


Từ khổ thơ thứ ba, sự thay đổi giọng chuông đột ngột từ hoan lạc,
hạnh phúc sang rùng rợn, thê thảm với sự gia tăng dồn dập những trạng
thái cảm xúc nặng nề khủng khiếp trong những câu thơ nhịp phách tự do,
điên đảo đã khiến bạn đọc không khỏi bàng hoàng. Phải chăng, những tiếng
chuông vàng chuông bạc dạo đầu ngắn ngủi kia chỉ là những ảo ảnh dối
lừa, còn thế giới hiện hữu thì chìm trong nỗi ám sợ khủng khiếp? Và có lẽ
nào, cuộc đời này chỉ là bữa tiệc của quỷ
(7)
?

Những năm tháng cuối đời Poe bị giới phê bình đem ra châm chọc rất
ác ý. Bài thơ cũng thể hiện phần nào sự mệt mỏi và tuyệt vọng của ông.
Những quả chuông đã trở thành bài thơ để đời thứ hai của Poe (sau
bài Con quạ). Thực sự thì khó có bản dịch nào lột tả hết được cách gieo vần
tài tình và kỹ năng điệp từ rất lành nghề và cũng đầy sáng tạo của ông.
Chẳng hạn trong phần cuối của mỗi khổ thơ Poe thường nhấn nhá điệp từ
bells dài đến bất thường. Trong tiếng Anh, danh từ bell nghĩa là quả chuông,
số nhiều thêm s sau cùng (bells). Khi từ bells xuất hiện nối tiếp, dồn dập bạn
đọc sẽ liên tưởng ngay đến âm thanh binh bong ngân vọng liên hồi. Và việc
sử dụng điệp từ rất sáng tạo này khiến hiệu quả âm thanh cũng như hình
ảnh được nhân lên gấp bội.

Chúng ta thấy rằng Poe xử lý điệp khúc trong Những quả chuông khác
với điệp khúc trong bài Con quạ. Điệp khúc "nevermore" vang lên 11 lần ở
cuối mỗi khổ thơ. Có tới 4 câu kết thúc khổ là "Quoth the raven, Nevermore"
(Con quạ kêu lên, "Không bao giờ nữa"). Còn một câu nữa nghĩa cũng vậy
nhưng dùng từ khác chút ít: "Then the bird said, Nevermore” (Sau đấy con
quạ nói "Không bao giờ nữa"). Bài thơ con quạ có 18 khổ, mỗi khổ 6 dòng,
điệp khúc nevemore, nothingmore, evermore xuất hiện đều đặn cuối dòng

thuộc dòng cuối của mỗi khổ thơ. Đây là một câu chuyện được kể bằng thơ
còn "những quả chuông" là bài thơ mang nội dung mô tả. Bài thơ chia làm
bốn khổ. Độ dài ngắn giữa các khổ không bằng nhau. Điệp từ bells không
xuất hiện ở dòng cuối của mỗi khổ mà là ngay trước câu thơ kết thúc của
mỗi khổ. Chúng được sử dụng rất ngẫu hứng, mỗi khổ là một biến thức
khác. Như kết thúc khổ một chẳng hạn:

From the bells, bells, bells, bells
Bells, bells, bells
From the jingling and tinkling of the bells

dịch thơ:

Những quả chuông, từ những quả chuông leng keng, leng keng
Hòa thành bản nhạc lung linh tuôn chảy từ những quả chuông,
quả chuông, quả chuông,
Chuông, chuông, chuông.

hay kết thúc khổ hai:

Of the bells, bells, bells,
Of the bells, bells, bells, bells
Bells, bells, bells,
To the ryming and chiming of the bells.

dịch thơ:

Những quả chuông, chuông, chuông, chuông
Những hồi chuông, chuông, chuông, chuông,
Chuông, chuông, chuông,

Sao mà nhịp nhàng bản hòa âm gióng giả những hồi
chuông.

Tuy Poe không viết một bài tiểu luận nào tương tự Triết lý về soạn
tác cho Những quả chuông nhưng chúng ta có thể đoán được phần nào
cách thức sử dụng điệp từ "bells" của ông. Chắc chắn số lượng điệp từ
"bells" cũng như tần số xuất hiện của nó ở mỗi khổ được tính toán kỹ lưỡng.
Chúng phụ thuộc vào vần điệu cũng như hiệu quả thanh âm ngôn từ của
những câu thơ trong khổ. Poe là một bậc thầy về kỹ thuật ngôn từ. Điều này
bộc lộ qua cả những lời chê bai thơ ông. Một số nhà phê bình cứng nhắc
thời đó đã lớn tiếng chỉ trích coi sự sáng tạo thi luật trong Con quạ như "một
mánh khoé vần điệu" và cho rằng "những tiết tấu như một điệu nhảy điên
đảo và những điệp âm màu mè dường như là khéo léo một cách vô dụng"
(8)
.
Nhưng cũng phải tính đến trường hợp Poe đã nhả "bells" theo mạch cảm
xúc của mình. Quá trình tính toán sẽ không thể hai năm rõ mười như công
việc gẩy bàn tính. Trong sáng tạo, đặc biệt là thơ, ý thức, vô thức, cũng như
trí tuệ cảm xúc cùng hoà quyện và bùng nổ mạnh mẽ. Bước tiếp theo sẽ là
quá trình "tự chỉnh sửa". Lúc này sự tính toán, cân nhắc cho sự thêm, bớt,
thay đổi sẽ đóng vai trò quan trọng. Và điệp từ "bells" chắc chắn đã được
gia công kỹ lưỡng ở công đoạn này. Trong bài tiểu luận Bản chất thơ Poe
viết: "Thơ là sự sáng tạo cái Đẹp có tiết tấu mà trọng tài duy nhất là thị
hiếu". Có thể thấy là tiết tấu của thơ hiện đại đã xuất hiện trong Những quả
chuông mà thể hiện rõ nhất ở điệp từ "bells" và những biến thức của nó.

Những quả chuông luôn được đánh giá là một cuộc cách mạng về thi
pháp. Sự cộng hưởng tuyệt vời giữa nhịp điệu và ngôn từ cùng với sự tuyệt
vọng và nỗi sợ như được chắt ra từ những cơn ác mộng mê loạn, vẫn làm
sửng sốt bạn đọc hai thế kỷ sau. Rất giàu vần điệu nhưng hình thức thơ thì

bứt phá mạnh mẽ, vượt xa những thi phẩm đương thời. Trong thế kỷ XX,
thơ tự do thống trị văn đàn và làm nên diện mạo của văn học hiện đại. Thế
nhưng ít người biết rằng ngay từ giữa thế kỷ XIX đã từng có một bài thơ mà
chỉ lướt thoáng qua thôi người ta sẽ không khỏi sửng sốt trước hình thức
hiện đại của nó. Bản thân Poe trong quá trình sáng tạo luôn cố gắng hướng
tới sự độc đáo. Ông cho rằng: " Những khả năng biến thức của vận luật và
khổ thơ là vô cùng tận - ấy vậy mà trong nhiều thế kỷ, không một ai trong
câu thơ, làm được, một điều độc đáo, mà xem ra cũng chẳng nghĩ đến làm
điều độc đáo. Sự thực là tính độc đáo (trừ phi ở những trí tuệ có sức mạnh
phi thường) tuyệt nhiên, như một số người giả định, không phải là vấn đề
xung lực (bản năng) hoặc trực giác. Nhìn chung, để chớp được nó, tính độc
đáo phải được tìm kiếm công phu và mặc dù là một phẩm giá tích cực cao
cấp, để đạt được nó đòi hỏi tinh thần phủ nhận nhiều hơn là óc sáng kiến"
(9)
.

Con quạ và Những quả chuông là hai bài thơ nổi tiếng nhất của Poe.
Có thể nói sự sáng tạo điệp khúc cũng như biến thức cách vận dụng điệp
khúc của Poe là đóng góp lớn nhất quyết định tầm vóc của hai tuyệt tác này.
So với "nevermore" của Con quạ và "bells" của Những quả chuông thì
những điệp khúc còn lại của Poe mờ nhạt hơn. Thế nhưng tách ra khỏi hai
cái bóng khổng lồ kia thì không ít điệp khúc trong số đó cũng gây ấn tượng
cho bạn đọc. Chẳng hạn điệp khúc "shadow" trong bài Miền đất
Eldorado (Eldorado). Bài thơ kể về một chàng hiệp sĩ lang thang tìm kiếm
miền đất theo truyền thuyết chứa chất nhiều vàng bạc, của cải mà cho đến
giờ vẫn không xác định được chính xác nằm ở đâu tại châu Mỹ.

Phục sức vui mắt
Chàng hiệp sĩ ga lăng
Trong ánh nắng và trong bóng râm

Làm cuộc hành trình dài
Hát một bài ca
Trên đường tìm kiếm Eldorado

Nhưng rồi hiệp sĩ cũng già đi
Chàng đã mập ra
Và bóng tối phủ lên tim chàng
Vì chàng chẳng tìm thấy dấu vết của vùng đất
Trông giống như Eldorado

Và cuối cùng
Khi sức lực tàn dần
Chàng gặp một cái bóng du hành -
`"Này bóng" chàng bảo -
"Xứ Eldorado này
Có thể ở đâu đây"
Bóng trả lời,

" Trên những dải núi của trăng
Dưới những thung lũng của bóng tối
Phi ngựa, phi ngựa hăng lên
Nếu ngươi tìm kiếm Eldorado"
(10)

Điệp khúc "Shadow" (cái bóng, bóng râm, bóng tối) phủ bóng lên cả
bài thơ. Nó xuất hiện đều đặn ở cuối dòng thứ ba tại mỗi khổ thơ. Chưa kể
là khổ thơ cuối cùng còn có thêm từ shade, cũng có nghĩa là bóng, bóng tối.
Cái bóng du hành xuất hiện cuối bài thơ với câu trả lời vừa phi lý vừa mơ
hồ, bí ẩn khiến không khí bài thơ từ bi quan chuyển sang ma quái, tuyệt
vọng. Cái bóng (shadow) ở đây có thể là cái bóng của chính chàng hiệp sĩ

già nua, là ảo giác có thực của một tâm thể suy kiệt. Mà cũng có thể đó là
một bóng ma, là thần chết đón hiệp sĩ đi vào thế giới của bóng tối.

Trong bài Lenore, điệp khúc "died so young" (chết rất trẻ) ở hai khổ
đầu cũng tạo một ấn tượng đặc biệt. Đây là bài thơ có bốn khổ, cũng tương
tự như Con quạ, bài thơ là lời than vãn thương tiếc của một chàng trai trẻ
cho người đẹp Lenore yểu mệnh. Hai khổ thơ đầu chỉ có 12 câu mà tới ba
câu có "died so young".

Ôi! Bát vàng đã vỡ rồi! Một linh hồn bay đi mãi!
Hãy để chuông rung! Một linh hồn thánh thiện dập dềnh trôi trên sông
Mê,
Và, Guy de Vere, ngươi không trào nước mắt ư? - than khóc bây giờ
hoặc không bao giờ nữa!
Hãy trông kìa! trên cỗ quan tài cứng đanh ảm đạm xa kia người tình
của mi nằm dưới, nàng Lenore!
Nào! Hãy để tang lễ được cử hành - và tang khúc được hát!
Một bài thánh ca cho người chết tôn quí nhất qua đời khi rất trẻ
Một bài hát truy điệu cho nàng, người giống như chết hai lần vì nàng
còn rất trẻ

Đám đê tiện kia! Các người yêu nàng vì của cải và ghét nàng vì sự
kiêu hãnh
Và khi nàng đau yếu các người cầu Chúa cho nàng chết!
Lễ nghi sẽ được cử hành thế nào? - bản cầu hồn sẽ được hát thế nào
Bởi các người - ánh mắt hiểm ác của các người, - miệng lưỡi điêu trá
của các người
Nhằm vào người chết, cô gái thơ ngây đã chết và chết khi còn rất trẻ?
(11)


Điệp khúc "died so young" khiến cho không khí của Lenore tang tóc
hơn Con quạ. Nếu như không gian trong Con quạ là thư phòng cổ kính rờn
rợn lúc nửa đêm thì phòng tang lễ củaLenore lại tràn ngập không khí tang
thương, chết chóc. "Died so young" xuất hiện ba lần giống lời xuýt xoa tiếc
nuối "chết trẻ quá, chết trẻ quá" trở đi, trở lại trong đám tang những cô gái
yểu mệnh. Và sự thương tiếc còn tăng thêm khi người qua đời là một thiếu
nữ trong trắng, thánh thiện. Kể cả không có điệp khúc "died so young" thì
cả bài thơ cũng đã tràn ngập không khí tang tóc vì trong Lenore Poe dùng
rất nhiều từ ngữ gợi đến chết chóc: đám tang, người chết, cái chết, sông Mê
(Stygian river) Cộng thêm sức nặng của điệp khúc "died so young", sự
đau đớn, tiếc nuối của nhân vật "buồn thương người tình đã qua đời" được
đẩy đến đỉnh điểm. Nó đã biến Lenore thành một trong những bài thơ tang
tóc nhất của Edgar Allen Poe.

Trong bài Annabel Lee, điệp khúc "by the see" (liền kề biển cả) lại tạo
nên một hiệu quả khác. Nó xuất hiện ở hầu hết các khổ thơ (trừ khổ thứ
năm) nhưng không ở một vị trí nhất định. Khổ 1,2,3 thì nằm ở cuối dòng thứ
hai, khổ 4 thì nằm ở dòng thứ tư, khổ 6, khổ cuối cùng, nằm ở dòng thứ bẩy.

Vào nhiều năm, nhiều năm trước đây
Trên một vương quốc liền kề biển cả
Có một trinh nữ mà bạn có thể biết đến
Với cái tên Annabel Lee;
Nàng trinh nữ này sống mà chẳng nghĩ ngợi gì
Ngoài việc yêu và được tôi yêu

Tôi và nàng hai đứa thơ ngây
Trên một vương quốc liền kề biển cả;
Nhưng chúng tôi yêu với một tình yêu còn hơn cả yêu -
Tôi và Annabel Lee của tôi

Với một tình yêu mà những thiên thần có cánh của thiên đường
Thèm muốn

Vì trăng không thể toả sáng nếu không mang lại cho tôi những giấc

Về Annabel Lee xinh đẹp;
Và những vì sao không bao giờ mọc nếu tôi không nhìn thấy đôi mắt
sáng
của Annabel Lee đẹp xinh;

Thế nên suốt cả đêm triều dâng, tôi nằm xuống bên nàng
Người yêu tôi, người yêu tôi, cuộc đời tôi và cô dâu của tôi
Trong huyệt mộ nơi liền kề biển cả
Trong nấm mồ biển cả kề bên
(12)

Cũng giống như Con quạ, Lenore, bài thơ này cũng nằm trong số
những bài thơ "tang tóc" với motif nhân vật "buồn thương người tình đã qua
đời" quen thuộc. Nhưng khác với điệp khúc của hai bài thơ trên, điệp khúc
"by the see" đã đặt cả bài thơ vào không gian mở, một không gian thiên
nhiên thơ mộng, hoàn mỹ. Chính vì vậy không khí tang tóc trong bài thơ này
không nặng nề như Con quạ và Lenore. Chưa kể ở bốn khổ thơ đầu từ
"vương quốc" (kingdom) đi liền với điệp khúc này còn tạo nên một không khí
hoài cổ, thậm chí cổ tích. Còn không gian trong bài thơ Con
quạ và Lenore là không gian khép kín (thư phòng cổ kính và nhà tang lễ),
không gian này tạo ra một hiệu quả khác, nó làm nổi bật sự mất mát, tang
tóc thậm chí là không khí rờn rợn, quái lạ như trong bài Con quạ. Ngoài ra,
thanh âm của điệp khúc "by the see" này rất phù hợp với cái tên Annabel
Lee, một cụm từ cũng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài thơ, như ở
khổ cuối cùng chẳng hạn.


For the moon never beams without bringing me dreams
Of the beautiful Annabel Lee;
And the stars never rise but I see the bright eyes
Of the beautiful Annabel Lee;
And so, all the night-tide, I lie down by the side
Of my darling, my darling, my life and my bride,
In her sepulchre there by the sea -
In her tomb by the side of the see

Rất tiếc là bản dịch tiếng Việt không chuyển tải được vần điệu của bài
thơ. Bản thân cụm từ "by the see" khi đọc lên ngay cả những người không
biết nghĩa của nó cũng có cảm giác thanh thoát, dễ chịu. Vậy là về cả mặt
thanh âm lẫn ngữ nghĩa điệp khúc "by the see" rất thích hợp với mối tình
trong trẻo, thậm chí thơ trẻ của đôi trai gái trong bài thơ.

*

Tuy Poe chỉ viết kỹ về quá trình sáng tạo điệp khúc trong Con
quạ nhưng ta cũng có thể thấy rõ "điệp khúc" là một trong những thủ pháp
sáng tác được Poe đặc biệt quan tâm. Từ nhu cầu sử dụng điệp khúc, đến
sáng tạo nội dung, thanh âm của điệp khúc và sau đó là sự điều chỉnh nội
dung cũng như vần điệu của bài thơ để điệp khúc nổi bật hay sự kết hợp
tuyệt vời này đã khiến tác phẩm thăng hoa, ta có thể thấy tính chuyên
nghiệp của Poe trong sáng tạo. Ông luôn được coi là bậc thầy về kỹ thuật
ngôn từ. Những kinh nghiệm viết và luận điểm sáng tác Poe trong Triết lý về
soạn tác cho thấy ông là người rất đề cao kỹ thuật viết và coi đó là điều kiện
quyết định cho một tác phẩm lớn ra đời. Những bài thơ sử dụng điệp khúc
trên đây thực sự là những bài thơ hay, chúng thường được đưa vào những
hợp tuyển, được nhắc đến nhiều lần trong những bài phê bình nghiêm túc

và có giá trị. Và chắc chắn điệp khúc chính là đóng góp quan trọng để
những bài thơ trên, đặc biệt là Những quả chuông và Con quạ, được xếp
vào hàng những tuyệt tác thi ca của nhân loại

×