Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

“Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc” - Di chúc nghệ thuật của Ibsen ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.15 KB, 8 trang )

“Khi chúng ta, những người
chết, tỉnh giấc” - Di chúc nghệ
thuật của Ibsen
Năm 1898, cả châu Âu mừng vui kỷ niệm 70 năm sinh Henrik Ibsen.
Những lễ hội trọng thể được tổ chức ở các nước Bắc Âu, đặc biệt tưng
bừng ở Na Uy(1), đất nước của Ibsen, nơi ông mới hồi hương không lâu
sau hai mươi bảy năm sống ở nước ngoài. Chính trong những năm “lưu
vong tình nguyện” ấy(2) Henrik Ibsen từ một tác giả mà ngay ở trong nước
không mấy người biết đến đã trở thành danh nhân thế giới, nhà viết kịch số
một của châu Âu nửa sau thế kỷ XIX, như công luận Âu châu nhất trí đánh
giá. Sự rộ nở của thiên tài Ibsen, tiếng vang sâu rộng mà những kiệt tác
của ông, như những làn sóng mạnh mẽ, liên tiếp làm lay động đời sống tinh
thần các nước Âu châu, đã tác động ngược lại đến văn học đất nước ông,
cổ vũ sự phát triển gia tốc của một loạt tài năng văn chương bước lên văn
đàn cùng thời và sau Ibsen (Bjonson, Kjellan, Harborg, Lee, Hamsun ),
khiến Na Uy, giữa thế kỷ XIX còn là một “tỉnh lẻ tinh thần của Đan Mạch”,
như Ibsen đánh giá(3), sau ba bốn thập kỷ đã trở thành một cường quốc
văn chương, làm cả thế giới kinh ngạc không kém nước Nga cũng trong thế
kỷ XIX ấy. Khiêm tốn đến cả thẹn, suốt đời ưa tìm sự cô đơn để viết và suy
nghĩ, không chịu đựng được mọi sự ồn ào xung quanh tên tuổi mình, toàn
bộ tâm trí hướng về ngày mai của dân tộc mình và nhân loại - một ngày
mai, như ông dự cảm, đầy rẫy những khó khăn và tai biến(4) - Ibsen tâm sự
với những người nhiệt thành hâm mộ tài năng ông rằng sau năm mươi năm
sáng tác quên mình, mà ông tự ví với một “tuần lễ thánh kéo dài lê thê”(5),
ông muốn viết thêm dăm ba vở kịch nữa, rồi sau đó chuyển sang văn xuôi
tự sự, viết một tự truyện kể lại tường tận hành trình tinh thần khổ ải, quan
hệ mật thiết giữa những trải nghiệm cá nhân với những trước tác của ông.
Thế nhưng số phận đã chỉ cho Ibsen thực hiện một phần rất nhỏ những ý
đồ sáng tạo ấy. Cả năm 1899, ông viết đi viết lại kịch phẩm ba hồi Khi
chúng ta, những người chết, tỉnh giấc (Nar vi dode vagner)(6), năm 1900
tác phẩm ra mắt bạn đọc với phụ đề khêu gợi lo âu cho tác giả: “Kịch - vĩ


thanh”. Và quả thật, trong năm ấy Ibsen bị đột qụy, tê liệt nửa người, năm
1901 đột qụy lần thứ hai, lần này tê liệt toàn thân và không thể sáng tác
được thêm gì nữa. Kịch Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc vì thế
thường được coi là một “di chúc tinh thần”, “di chúc nghệ thuật” của nhà đại
văn hào Na Uy. Định thức này là xác đáng, bởi vì tác phẩm cuối cùng này
vừa mang rõ nét và đầy đủ dấu ấn của nghệ thuật kịch Ibsen, vừa đề cập
một vấn đề mà nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng Ibsen suốt đời bận tâm, do tính
thời sự vĩnh hằng của nó - vấn đề quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc, chúng ta có một mẫu mực
điển hình của kịch Ibsen giai đoạn cuối đời, khi mà tài viết kịch của ông,
theo sự đánh giá chung của giới phê bình, đạt độ diệu nghệ(7). Về cảm
hứng sáng tạo, nó là một tổng hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa hiện thực, chủ
nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng - sinh thời, những người cổ xuý
cho ba trào lưu khác nhau và đấu tranh với nhau ấy ai cũng tìm ra đủ lý do
để liệt Ibsen vào hàng ngũ những chiến hữu của mình. Nhưng kịch phẩm
cuối cùng, cũng như toàn bộ sáng tác của Ibsen, cho thấy ông luôn luôn
đứng bên trên cuộc chiến, thấy rõ những hạn chế của các trào lưu nghệ
thuật đương thời nhưng biết tiếp thụ, biến thành của mình những thành quả
và phát kiến của chúng. Trong kịch Khi chúng ta, những người chết, tỉnh
giấc, trước chúng ta hiện ra đất nước Na Uy với thiên nhiên đặc thù, hùng
vĩ và khắc nghiệt, xã hội Na Uy cuối thế kỷ XIX đã tiến khá xa trong quá
trình hiện đại hoá và đã hội nhập vào cộng đồng lớn của các nước Âu châu,
những con người Na Uy với tính cách dân tộc mạnh mẽ, đã được giải
phóng khỏi những lo âu về cơm ăn áo mặc hàng ngày nhưng đang đứng
trước những vấn đề đầy tính bi kịch mới của xã hội hiện đại. Gần gũi về
cảm hứng với “sân khấu tâm hồn” của các nhà viết kịch tượng trưng chủ
nghĩa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, tác phẩm của Ibsen khác rõ rệt
những kịch phẩm, thí dụ, của Maeterlinck về bút pháp: ngoài bối cảnh lịch
sử - xã hội cụ thể (đối lập với không gian và thời gian trừu tượng trong đa
số kịch của Maeterlinck), tác phẩm cuối cùng của Ibsen làm ta kinh ngạc

bởi tính kiệm lời cao độ của nó: không một độc thoại, dù là những độc thoại
cô đúc chiếm chỉ một hai dòng, chỉ có những đối thoại ngắn gọn giữa các
nhân vật, song những đối thoại ấy lôi cuốn theo mình toàn bộ hành động
kịch(8). Lời thoại trong kịch Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc, cũng
như trong các kịch văn xuôi khác của Ibsen, hết sức tự nhiên, tưởng chừng
giống hệt những lời thoại trong đời thật, có điều độc giả (hay khán giả) luôn
luôn bị ngỡ ngàng trước tính bất ngờ, khó đoán trước của chúng - chúng
tựa hồ những đường kiếm trong cuộc đấu giữa những tay kiếm siêu hạng.
Đây là một trong những bí quyết làm nên tính hấp dẫn thường trực của kịch
Ibsen. Khi chúng ta, những người chết, tỉnh giấc, cũng như nhiều kịch phẩm
khác của Ibsen, còn có một đặc điểm thi pháp nữa khiến ta nhớ đến kịch cổ
điển và cổ điển chủ nghĩa - đó là sự tuân thủ khá nghiêm ngặt nguyên tắc
“ba thống nhất”: toàn bộ hành động kịch diễn ra ở một địa điểm trong thời
gian không quá 24 giờ. Cụ thể ở đây là một ngày và một đêm hè ở một khu
an dưỡng miền nam Na Uy.
Do vở kịch này của Ibsen chưa được dịch ra tiếng Việt, chúng tôi bắt
buộc phải thuật lại vắn tắt nội dung của nó. Kịch có bốn nhân vật chính:
giáo sư Arnold Rubek, nhà điêu khắc trứ danh, bà Maya, người vợ trẻ của
ông, một điền chủ ở vùng ấy mê săn thú rừng tên là Ulfheim và một thiếu
phụ từ nơi khác đến đây an dưỡng. Tấn kịch diễn ra theo hình tứ giác giữa
nhà điêu khắc với người thiếu phụ này và vợ ông với người điền chủ săn
thú rừng.
Ibsen đã cho nhân vật trung tâm của vở kịch - giáo sư Rubek - không
ít nét từ tiểu sử và nhân cách của bản thân. Cũng như tác giả của mình,
Rubek là một nghệ sĩ lừng danh toàn cầu, khó chịu đến căm ghét sự lừng
danh ấy và tìm kiếm sự yên tĩnh trong cô đơn. Cũng như Ibsen trong đời
thực, nhà điêu khắc hư cấu này đã rất nhiều năm sống ở nước ngoài và chỉ
thỉnh thoảng ghé về thăm đất nước. Trong quá trình diễn biến kịch, Rubek
thổ lộ nhiều xác tín của chính Ibsen về quan hệ giữa người sáng tạo với
công chúng thưởng thức, về lao động khổ sai chung thân của người nghệ

sĩ thực thụ, về sự lưỡng phân bi kịch giữa nghệ sĩ và con người trong nhân
cách của anh ta. Nhưng Rubek tuyệt không phải là cái bóng mờ nhạt của
tác giả, cũng như tác phẩm cuối cùng của Ibsen tuyệt không phải là kịch
luận đề minh họa đơn thuần những tư tưởng dù là tâm huyết của ông. Đó là
một con người sống, với cuộc đời, sự nghiệp và nhân cách phong phú và
phức tạp. Chúng ta làm quen với Rubek ngay từ khi sân khấu mở màn: ông
ngồi với vợ bên bàn ăn sáng trên thềm rộng trước một khách sạn - an
dưỡng đường thượng hạng. Qua mấy lời trao đổi rời rạc, gượng gạo giữa
vị giáo sư tuổi đã ngoại ngũ tuần với người vợ trẻ đẹp của ông ta cảm thấy
ngay: giữa hai con người này không có gì chung, mặc dù họ sống với nhau
đã khá lâu. Chiều ý người vợ đã cùng ông hơn 5 năm sống xa quê hương
đất nước, Rubek với vợ thực hiện một cuộc “hành hương” với đầy đủ tiện
nghi, nhưng nó không đem lại thỏa mãn cho cả hai người: Rubek không
ngớt buồn phiền, chán ngán với cuộc sống hưởng lạc nhàn tản, không lao
động sáng tạo kéo dài từ năm này qua năm khác của mình, còn Maya, vợ
ông - một tâm hồn xa lạ với thế giới nghệ thuật và với mọi nhu cầu tinh thần
cao siêu, yêu cuộc sống với những hoạt động sôi nổi bề ngoài, những lạc
thú tự nhiên và giản đơn của nó - thì luôn luôn cảm thấy mình như con chim
trời bị nhốt vào lồng vàng. Rubek, hiểu biết tận tường vợ mình và không
nuôi dưỡng ảo tưởng gì về nàng, trong thâm tâm ân hận vô cùng vì đã kết
hôn với nàng, cố gắng hết sức để cho nàng không nhận thấy điều đó,
nhưng không phải lúc nào cũng làm được: từ miệng ông, thỉnh thoảng lại
buột ra những lời châm biếm kín đáo, khiến người vợ cảm thấy bị xúc
phạm. Giữa lúc ấy, xuất hiện người điền chủ đi săn thú với một bầy chó săn
và người trông chó. Maya hứng khởi hẳn lên, xin phép chồng được đi săn
với người điền chủ. Rubek đồng ý ngay lập tức: ông biết nàng đang cần
những thú vui như thế, nhưng ông còn một động cơ khác, không nói ra: ông
đang rất quan tâm đến một người phụ nữ chắc cũng ở trong khách sạn này
mà đêm qua ông nhìn thấy đi lang thang trong bộ đồ trắng như một người
mộng du giữa công viên trước khách sạn. Hỏi người phục vụ, ông được

biết người phụ nữ này mang tên chồng - một quý tộc Nga - nhưng bản thân
là người Na Uy. Bà đến đây đã một tuần, điều trị một chứng tâm thần kinh
niên và đi đâu cũng có một nữ y tá - tu sĩ tháp tùng. Chỉ một chốc sau,
người thiếu phụ ấy xuất hiện trên sân khấu, nhà điêu khắc từ xa đã nhận ra
ngay: ông rất quen biết nàng, xưa kia nàng đã nhiều năm làm người mẫu
cho ông, thời ông sáng tạo tác phẩm điêu khắc đã làm tên tuổi ông lừng lẫy
khắp năm châu. Rubek mừng rỡ bước tới bắt chuyện với nàng, nàng tỏ ra
không hề ngạc nhiên gặp lại ông, cứ như đã chờ sẵn ông ở nơi đây. Qua
những lời trao đổi, vấn đáp giữa hai nhân vật, ta dần dần dựng lại được lịch
sử quan hệ giữa họ với những hệ quả của chúng.
… Từ trẻ, nhà điêu khắc Rubek ấp ủ ý đồ tạo dựng một tác phẩm điêu
khắc quần thể hoành tráng thể hiện một tư tưởng tôn giáo - triết lý
lớn: Phục sinh từ cõi Chết. Hình tượng trung tâm thể hiện khát vọng muôn
đời ấy của loài người về sự cải tử hoàn sinh cho tất cả, trút sạch mọi bụi
trần để nhập vào vương quốc vĩnh hằng của cái tận Chân, tận Thiện, tận
Mỹ, theo ý niệm của người nghệ sĩ, phải là hình tượng một thiếu nữ tuổi
hoa với thân hình kiều diễm, trinh bạch và hồn nhiên, thức dậy từ cõi chết
như sau một giấc ngủ nhẹ nhàng, không mộng mị. Nhà điêu khắc đi khắp
nước tìm kiếm một người mẫu xứng đáng và cuối cùng đã tìm được một
thiếu nữ mà chàng ưng ý, đã thuyết phục được nàng rời bỏ những người
thân, rời bỏ quê hương đất nước, sang một thủ đô Âu châu giúp chàng
thực hiện ý đồ sáng tạo kỳ vĩ của chàng. Hơn ba năm trời hai người gặp
nhau hầu như hàng ngày, hơn ba năm trời Iréna (tên người thiếu nữ) làm
người mẫu cho Rubek, nhìn thấy hình ảnh khoả thân của mình ban đầu
được phác họa trên giấy, rồi được nặn bằng đất sét, cuối cùng được chạm
khắc trên cẩm thạch trắng như tuyết. Rất ít hiểu biết về nghệ thuật và chưa
lui tới một bảo tàng nào, Iréna tuy vậy biết quý trọng ý đồ sáng tạo của
Rubek, càng ngày càng lây lan cảm hứng nghệ sĩ của chàng, càng ngày
càng cảm thấy mình là người đồng sáng tạo và thấm thía tình yêu với tác
phẩm đương ra đời trước mắt nàng, xem nó là “đứa con chung” của Rubek

với nàng. Để xứng đáng với ý đồ sáng tạo siêu phàm của mình, Rubek đã
bằng ý chí đè nén dục vọng tự nhiên của người đàn ông trước sắc đẹp ngời
ngời của người trinh nữ, ba năm trời chỉ chiêm ngưỡng nàng từ những cự
ly và giác độ khác nhau, nhưng không bao giờ dám đụng đến thân thể
nàng. Thế rồi đến ngày pho tượng cẩm thạch đã gần như hoàn tất, nhà
nghệ sĩ đang hân hoan thấy một phần chính công việc đã làm xong, thì
bỗng nhiên chàng không thấy Iréna đến xưởng điêu khắc của mình nữa.
Nàng đã lặng lẽ, không một lời từ biệt, biến mất khỏi cuộc đời chàng. Thời
gian đầu, Rubek cố gắng tìm nàng, nhưng đâu dễ tìm ra một con người
không địa chỉ giữa một thủ đô hơn một triệu dân. Vả lại, phải trở về với tác
phẩm quần thể, mà hình tượng người trinh nữ chỉ là một bộ phận, tuy là bộ
phận trung tâm. Và nhà điêu khắc lại vùi đầu vào công việc, bắt mình quên
đi người thiếu nữ đã làm mình hâm mộ say đắm, tự an ủi mình bằng ý nghĩ
rằng chắc cô người mẫu trẻ đẹp, quyến rũ đã tìm được một nghệ sĩ tạo
hình khác, giàu hơn chàng và thậm chí đã kết duyên với người ấy. Mấy
năm sau, tác phẩm Phục sinh từ cõi Chết mới hoàn thành và lập tức được
công luận hết lời tán thưởng. Rubek nhanh chóng trở thành một nhà điêu
khắc trứ danh, thậm chí thời thượng. Những đơn đặt hàng tới tấp đến với
chàng từ nhiều nước. Nhưng chàng cảm thấy mình đã bị vắt kiệt. Cảm
hứng sáng tạo, mãnh liệt đến thế trong những năm chàng nặn khắc tác
phẩm Phục sinh từ cõi Chết, đã rời bỏ chàng. Nhưng cần tiếp tục khẳng
định mình như một nghệ sĩ, và Rubek đã miễn cưỡng điêu khắc một loạt
chân dung nửa người của những đại gia tư sản không tiếc tiền trả công cho
chàng. Đó thực ra là những chân dung châm biếm ngấm ngầm mà chỉ
chàng, tác giả, hay những người rất sành sỏi mỹ thuật mới nhận ra được:
đằng sau những khuôn mặt người có vẻ phúc hậu và mãn nguyện ẩn náu
đường nét của những con thú: lợn, chó, ngựa, dê, cáo, sói… Khi nhờ
những tác phẩm như thế bản thân Rubek, lúc ấy đã luống tuổi, trở thành
một phú gia, ông bỗng cảm thấy chán ngán với cái nghề của mình, với cái
lao động nặng nhọc, hàng ngày phải gia công trong bụi bẩn đất sét với

thạch cao, với đá… và muốn được hưởng thụ cuộc sống của một người
hữu sản. Ông xây cho mình một toà nhà lộng lẫy giữa thủ đô một nước
châu Âu, một biệt thự trang nhã có vườn hoa và vườn cây bao quanh bên
bờ một hồ núi ở Thụy Sĩ, rồi về nước kiếm một người vợ trẻ đẹp xứng đôi
với ông, với ý đồ từ nay đến hết đời chỉ hưởng thụ cuộc sống, nếm trải mọi
lạc thú mà nó có thể đem lại. Nhưng khá nhanh ông hiểu rằng một cuộc
sống như thế không dành cho ông, rằng ông không thể sống mà không lao
động sáng tạo. Ông khao khát trở về với nghề của mình, nhưng đau buồn
nhận thấy hình như mình đã vĩnh viễn đánh mất cảm hứng sáng tạo. Lần
theo quá khứ, ông dần dần ngộ ra rằng nó đã bỏ rơi ông từ khi Iréna đột
ngột biến mất khỏi cuộc đời ông. Hoá ra người phụ nữ ấy chiếm giữ vị trí
then chốt trong số phận ông mà ông không hay. Ông mơ ước tìm lại nàng
nhưng không biết nàng ở đâu. Nhưng rốt cuộc, số phận đã xếp đặt cho ông
gặp lại nàng, vì nàng cũng tìm ông.
Iréna lúc ấy đã gần như thân tàn ma dại. Sau khi rời bỏ Rubek, nàng
đã kinh qua đủ mọi nghề để nuôi thân, nhiều năm làm vũ nữ trong một nhà
hàng trình diễn khiêu vũ khoả thân. Nàng đã trải qua hai đời chồng: một
điền chủ giàu có ở Nam Mỹ, người này đã tự tử vì không sống chung được
với nàng, và một nhà tư bản Nga ở vùng Ural, mà hiện nay với ông ta nàng
đang sống ly thân. Ly thân và độc thân: không con cái, không bạn bè gần
gũi. Iréna tự gọi mình là người mất hồn: thời hoa niên trinh trắng, nàng đã
vĩnh viễn dâng hiến cả tâm hồn mình cho Rubek với tác phẩm của chàng
mà không ý thức được hết điều đó. Nàng đã yêu Rubek bằng mối tình đầu
tiên và độc nhất trong đời, nồng cháy và thiết tha nhưng thầm lặng. Biết
Rubek ngưỡng mộ không chỉ nhan sắc mà cả tâm hồn mình, nàng kiên trì
chờ đợi lời tỏ tình từ phía chàng. Nhưng khi pho tượng sắp đến ngày hoàn
thành, nghe Rubek cảm ơn nàng “đã làm sáng cả một đoạn đời” của chàng,
nàng hiểu ra rằng, trong hơn ba năm trời, theo đuổi sự nghiệp của mình,
Rubek chỉ tiếp xúc với nàng như một nghệ sĩ, nàng cần cho chàng để
chàng thực hiện được ý đồ sáng tạo của mình, và chỉ có thế thôi. Thất

vọng, nàng đã lặng lẽ chủ động cắt đứt mọi quan hệ với chàng, hy vọng
thời gian sẽ dần dần chữa lành vết thương lòng. Nhưng đoạn tuyệt với tình
yêu, đoạn tuyệt với “đứa con chung” của nàng với Rubek, nàng thấy tâm
hồn mình dần dần chết đi, thấy mình trở nên dửng dưng với tất cả, dửng
dưng với cuộc đời của chính mình, cứ để số phận xoay vần nó thế nào
cũng được. Nàng sống giữa nhân gian như người đã chết. Nhưng nàng vẫn
không quên được Rubek với tác phẩm của chàng. Và từ khi tên tuổi Rubek
trở nên lừng lẫy, nàng theo dõi qua báo chí mọi sự kiện trong đời chàng.
Biết chàng đã trở nên giàu có và có người vợ trẻ đẹp, nàng tìm gặp để thấy
tận mắt hạnh phúc của chàng và bằng cách ấy làm sưng tấy, mưng mủ
thêm lên vết thương lòng không lành của mình (một lối hành động điển hình
cho người mắc chứng tâm thần).
Cuộc chuyện trò giữa Iréna với Rubek ban đầu đầy tính xa cách, ghẻ
lạnh. Iréna đáp lại những lời hỏi han chân tình của Rubek bằng những lời
châm chọc chua cay. Nhưng càng trò chuyện thì sự xa cách, hờn giận, ngờ
vực giữa hai người càng tan biến như sương mù trước mặt trời lên. Iréna
cảm thấy mình dần dần sống lại, Rubek thì sung sướng vì đã tìm lại được
một con người duy nhất không thể thiếu cho sự tồn tại của chàng trên đời
này. Chàng cũng cảm thấy mình đang trải qua một cuộc cải tử hoàn sinh.

×