Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhịp điệu thơ hôm nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.71 KB, 7 trang )

Nhịp điệu thơ hôm nay
Các nhà thơ xác định nhịp điệu như là sự rung động tâm hồn, thoát khỏi những
đều đặn, cân đối, không phải sự chia cắt, lặp lại mà luôn có xu hướng khát
vọng, giao hòa và lan tỏa. “ Tôi rất đỗi ngạc nhiên thấy những nhà phê bình có
thiện cảm, tán thưởng bài thơ như một sự kết tinh, tuy thơ đối với tôi trước hết
là sức chuyển động, từ lúc mới sinh, khi nảy nở và sau cùng tỏa rộng ra”
(Saint-John Perse). Trong bài Mấy ý nghĩ về thơ (1949), Nguyễn Đình Thi quan
niệm: “Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên
bổng xuống trầm của tiếng đàn bên tai (…). Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ
nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của
tâm hồn (…). Đó là nhịp điệu thành hình của những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp
hòa hợp mà những tiếng và chữ gợi ra như những ngân vang dài, ngay những
khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo
của sự xúc động”. Theo quan niệm đó, nhịp điệu không những không trùng với
âm luật, không cần sự giúp đỡ của thanh điệu mà nó tự tạo ra những yếu tố tự
do phù hợp với rung động tâm hồn. Nhịp điệu không thể là những khuôn mẫu
buồn tẻ mà bao giờ và trước hết là tình cảm.
Nhịp điệu không chỉ là sự biểu hiện mà còn là mối quan hệ được thể hiện
trong một hình thức dễ cảm thụ và dễ tái hiện. Và đó là ý nghĩa của nhịp điệu
trong thơ, trong nghệ thuật nói chung. Trong tất cả những tác động, những ấn
tượng đối với cảm giác, các âm thanh có quan hệ với nhịp điệu nhiều nhất. Âm
thanh không chỉ là cảm giác bên ngoài mà còn là sự chuyển động bên trong
tạo ra những phản ứng tâm lý và hướng tới một thông báo thẩm mỹ.
Nói đến nhịp điệu ngôn ngữ phải nói đến sự chia cắt dòng âm thanh, mà
khi đọc, người đọc cảm thụ một cách trực tiếp. Một số nhà nghiên cứu khẳng
định rằng nhịp điệu chính là sự phân đoạn câu thơ, dòng thơ. Ngay cả những
người không hiểu, không biết ngôn ngữ nào đó, nhưng họ vẫn cảm được nhịp
điệu của nó, nhờ vào chỗ ngắt dòng âm thanh. (Đây là quan niệm thông
thường, cho dù không phải là tất cả, nhất là đối với các nhà thơ).
Về mặt nghĩa, ngôn ngữ chia ra thành từ, ngữ, câu. Khi phát âm sự phân
chia này được biểu hiện bởi chỗ ngắt, ngữ điệu… Nhưng những đơn vị ngữ


âm được tạo ra bằng những phương tiện đó, không phải bao giờ cũng trùng
với những đơn vị nghĩa tương ứng. Chẳng hạn:
“Dòng sông-hoa tím
Trôi hờ
Lao xao những bước chân
Chờ gặp nhau”
(Không còn bức tranh ngày cũ - Hoàng Ngân)
Thực hiện thao tác chuyển các dòng thơ trở về thành câu thơ chuẩn:
“Dòng sông - hoa tím trôi hờ
Lao xao những bước chân chờ gặp nhau”
lập tức các đơn vị ngữ âm không tương ứng với đơn vị nghĩa. Ở câu bát
(câu 8 chữ ), chỗ ngắt nhịp tạo ngữ điệu 2/2/2… quen thuộc ở thơ lục bát: “Lao
xao/ những bước/ chân chờ/ gặp nhau” trong khi đó đơn vị nghĩa có thể là:
“Lao xao/những bước chân/ chờ gặp nhau”. Và nếu như ngắt nhịp như thế thì
sự “lạ hóa” được nhấn mạnh, gia tăng.
Thông thường nhịp điệu truyền thống bao giờ cũng có áp lực lớn lôi kéo
người đọc, nhất là người đọc không phải là nhà thơ. Theo quán tính cứ gặp
những thể thơ quen thuộc, trong tâm thức người Việt lại vang lên nhịp điệu có
sẵn 2/2 (thơ 4 chữ), 3/2 hay 2/3 (thơ 5 chữ), 2/2/3 (thơ 7 chữ), 2/2/2… (thơ lục
bát). Ngày nay khi mà các thể loại đan cài, giao thoa nhau, nhà thơ có khi “viết
như nói” thì nhịp điệu câu thơ hoàn toàn bị chi phối bởi giọng đọc, điểm dừng
ngữ nghĩa. Đây là một cách đọc, cách ngắt nhịp:
“Và lúc ấy/ những luồng khí quanh ta/ bắt đầu rung chuyển
Để nâng giữ trên bóng đêm/ cái lò lửa huy hoàng
Nơi thiêu đốt/ trong chúng ta những xấu xa/ ngông cuồng và hỗn loạn
Nơi sáng bừng/ trong dâng hiến của tình yêu”
(Tình yêu – Tạ Thành Vinh)
Điều này càng rõ hơn ở thơ văn xuôi:
“Ta là con Xà Mâu luôn luôn thức tỉnh/một tiếng động vô hình cũng làm ta
đứng phắt/ trên bốn chân con sư tử vườn. Ta xé xác/những tên trộm cướp leo

tường/ những tên đào ngạch. Loại chuột chù chuột cống/rắn hổ mang/ hổ báo/
chúa sơn lâm/gặp ta đều ớn lạnh”
(Con Xà Mâu tội nghiệp - Thu Bồn)
Thơ và nhịp điệu, mối quan hệ này ở cả hai phương diện: Nhà thơ là đại
diện của nhịp điệu. Blôc đã ghi trong nhật ký của mình(7-2-1921): “Nhà thơ là
người thế nào? Là người sáng tác thơ? Tất nhiên - không phải như thế. Nhà
thơ-đó là vị đại diện của nhịp điệu”. Mặt khác, ngôn ngữ thơ bao giờ cũng có
nhịp điệu, ngay cả khi nó không có hình thức thơ. Và nhịp điệu thơ là luôn luôn
biến hóa, không thể dự đoán được.
Có một điều chắc chắn, nhịp điệu thơ quan hệ mật thiết với ngữ nghĩa.
Một là, nhịp điệu trùng với ngữ nghĩa, tức là ngắt nhịp, ngoài việc tạo tính
nhạc còn có giá trị biểu đạt nội dung thơ:
“Con hỏi vì sao chúng nó tìm
Tìm ai, con hỏi, mẹ rằng: Im!”
(Quê mẹ- Tố Hữu)
Hai là, nhịp điệu không trùng với ngữ nghĩa, ngắt nhịp khác đi, ngữ nghĩa
sẽ khác. Theo quán tính và áp lực của luật thơ toàn bài, người đọc có thể đọc:
“Non cao/tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non”
(Thề non nước - Tản Đà)
Ngọn núi cao nhưng là núi trẻ (tuổi vẫn chưa già). Nếu ngắt nhip 3/3:
“Non cao tuổi/ vẫn chưa già”, ý thơ có khác: Núi đã lâu năm ( cao tuổi) nhưng
vẫn còn trẻ (chưa già). Trường hợp sau đây, ngắt nhịp không chuẩn làm sai lạc
ý thơ. Câu thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, bài số 15:
“Vừa sáu mươi dư tám chín thu
Lưng gày da sỉ tướng lù khù”
“Nếu ngắt nhịp 4/3, vừa sáu mươi dư/tám chín thu, thì câu thơ tối nghĩa,
hoặc phải hiểu là Nguyễn Trãi đã hơn tuổi 60 khoảng tám chín năm, tức là 68
hay 69 tuổi. Một số tuổi sai, vì ông mất năm 62 tuổi (1442). Nhưng nếu câu thơ
được ngắt nhịp 3/4, Vừa sáu mươi / dư tám chín thu, thì ý nghĩa của nó sẽ

thông tỏ. Nguyễn Trãi nói về tuổi tác của mình, nghĩa là phải dư ra tám
chín năm nữa mới vừa đủ 60 tuổi, tức là ông đang ở tuổi 51, 52. Mới 51, 52
tuổi mà thân hình đã tiều tụy, nhếch nhác, tội nghiệp, đáng thương như thế.
Lời thơ vừa có ý vị hài hước, lại có ý vị đau đớn, xót xa”
(3)
.
Ba là, nhịp điệu thơ tạo ra sức “năng sản” ngữ nghĩa thơ. Câu thơ có thể
có nhiều thông báo, nhiều lời thơ. Các lời thơ ấy chuyển dịch theo lối “chạy tiếp
sức”:
“Gốc bưởi hẹn trăng mờ sông bến lở”
(Gọi đò – Lê Đạt)
Chuyển dịch nhịp điệu sẽ có một câu thơ tạo nghĩa:
“Gốc bưởi/ hẹn trăng mờ/ sông bến lở”
“Gốc bưởi hẹn/ trăng mờ/ sông bến lở”
“Gốc bưởi hẹn trăng mờ/ sông bến lở”
Đến đây, chúng ta có thể hiểu thơ là ngôn ngữ mà trong đó nhịp điệu
điều khiển cú pháp. Và trong thơ, nhịp điệu có nhiệm vụ điều chỉnh ngữ điệu,
ngữ nghĩa. Những trường hợp đó, câu thơ nói được nhiều hơn dự định của tác
giả.
Bản thân hình thức câu thơ trở thành phương tiện phụ trợ của thơ,
nhưng thơ hiện nay không coi trọng hình thức như thơ truyền thống. Người ta
coi thường những câu thơ mà không có chất thơ (poésie) và quan niệm câu
thơ chỉ là hình thức bề ngoài của thơ, hình thức mà thực ra không có nó thì thơ
vẫn có thể tồn tại.
Ngày nay, các luật thơ đóng vai trò thứ yếu so với yêu cầu ngôn ngữ và
do đó trong thơ không còn ý nghĩa của việc phân chia ranh giới giữa hai hình
thức ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi. Điều này hoàn toàn đúng nhưng
không áp dụng được vào hệ thống luật thơ truyền thống. Câu thơ truyền thống
khác hẳn câu văn xuôi bởi sự phục tùng nghiêm ngặt các quy tắc về nhịp điệu;
có lúc vì những quy tắc đó, thậm chí nó phải phá bỏ những quy tắc về ngôn

ngữ. Câu thơ trong bài Lên lão của Nguyễn Khuyến: “Ông chẳng hay ông tuổi
đã già” là một minh chứng lý thú. Nhịp điệu của luật thơ “Ông chẳng/ hay ông/
tuổi đã già”. Nhưng ngôn ngữ (về ý nghĩa) “Ông chẳng hay/ ông tuổi đã già”.
Quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ XX đem lại quyền tự do cho
sáng tạo thoát khỏi những luật thơ đồng thời cả những quy tắc về nhịp điệu.
Phong trào Thơ mới tăng cường vai trò nhịp điệu. Nhịp điệu thay thế cho vần
và hạn chế sự tự nhiên của ngôn ngữ. Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh … tăng cường trước hết cho trật tự tự nhiên của
các từ:
“Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi”
(Buồn xưa – Nguyễn Xuân Sanh)
Nhịp điệu “Quỳnh hoa/ chiều đọng/ nhạc trầm mi” bảo lãnh cho các từ tự
do thay đổi vị trí và sự sinh động của câu thơ. Sự tự do này có tính chất hai
mặt: vừa tuân theo quy tắc về nhịp điệu, vừa xa rời tiêu chuẩn cú pháp ngôn từ.
Trong những hình thức của thơ truyền thống, nhịp điệu bị o ép bởi sự tác
động lẫn nhau giữa thành phần cú pháp và đơn vị ngữ nghĩa, nhưng khi thơ ca
không hướng về hình thức ổn định mà “nồng nhiệt” và “hỗn loạn” thì nhịp điệu
được tự do và sẽ là tiêu chuẩn để phân ranh giới: thơ với văn xuôi./.

×