Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Taxol và ung thư pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.44 KB, 5 trang )

Taxol và ung thư


Đầu những năm 1960, viện Ung thư Quốc gia Mỹ đã tách ra được một hợp chất có
hoạt tính từ cây Thông đỏ gọi là taxol.
- 1967, từ vỏ thân Thông đỏ Taxus brevifolia (Taxaceae)
-> Taxol tinh khiết = Paclitaxel
-> chế phẩm Taxol® (Bristol-Myers Squibb)
Taxol còn có / Taxus cuspidata, T. wallichiana họ Taxaceae
- Năm 1969 : từ 1250 kg vỏ thân đã chiết xuất ra 28 kg cao toàn phần và 10 g
Taxol tinh khiết
Taxol được tìm thấy trong vỏ và rễ cây thông đỏ nhưng hàm lượng trong vỏ cây
nhiều hơn. Hàm lượng khoảng 1000mg/kg vỏ cây khô (0,01%). Một cây thông đỏ
khoảng 100 tuổi cho gần 3kg vỏ cây.Việc thu thập vỏ làm cây nhanh lão hoá và
chết, do vậy cần nghiên cứu phương pháp tổng hợp taxol.
- Các nhà hoá học đã tìm thấy quy trình bán tổng hợp taxol từ 10-DAB, một tiền
chất cho sự tổng hợp sinh học, có thể chuyển hoá thành taxol với hiệu suất rất cao.
10-DAB được tìm thấy trong nón thông và lá thông.Vào thập niên 1980 P.Poitier
đã chiết từ lá cây thông đỏ 10-DAB với hàm lượng khá cao(0,1%).
- 1971 :Wall và Wani đã công bố cấu trúc Taxol.
- 1989 : Robert A Holton thuộc trường Đại học Florida đã phát triển thành công
phương pháp bán tổng hợp Taxol.
- 1994: Tổng hợp toàn phần Taxol
- Spencer và Faulds(1994) đã xem xét tính dược động học của taxol và tiềm năng
trong việc chữa bệnh ung thư.Taxol là một trong những dược phẩm cho kết quả
đầy hứa hẹn trong hoá trị liệu các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng; ngăn
chặn sự mất kiểm soát trong quá trình phân chia của tế bào ung thư.
Dược lý và cơ chế tác dụng
Paclitaxel, hoạt chất có trong vỏ cây thông đỏ Taxux brevifolia, là một thuốc
chống ung thư. Paclitaxel làm tăng quá trình trùng hợp các dime tubulin tạo thành
các vi quản và làm ổn định các vi quản do ức chế quá trình giải trùng hợp.


Sự ổn định này ức chế sự tổ chức lại bình thường của mạng vi quản rất quan trọng
ở gian kỳ của quá trình phân bào giảm nhiễm, và cả với hoạt động của ty lạp thể.
Paclitaxel cũng gây tạo thành các cấu trúc bất thường trong các vi quản trong quá
trình phân bào.
Tuy chưa được nghiên cứu kỹ nhưng do cơ chế tác dụng của nó, paclitaxel phải
được coi là chất gây ung thư và độc đối với gen. Các thử nghiệm in vivo và in
vitro cho thấy paclitaxel có tác dụng gây đột biến gen trên tế bào động vật có vú.
Nồng độ thuốc trong huyết tương tỷ lệ thuận với liều được truyền vào tĩnh mạch
và giảm theo đồ thị có 2 pha. Tỷ lệ gắn với protein là 89% (in vitro) và không bị
thay đổi khi dùng cùng với cimetidin, ranitidin, dexamethason, hoặc
diphenhydramin.
Ở giai đoạn ổn định, thể tích phân bố là 5 - 6 lít/kg thể trọng (68 - 162 ml/m
2
), cho
thấy thuốc khuếch tán nhiều ra ngoài mạch và/hoặc gắn nhiều với các thành phần
của mô.
Người ta còn chưa biết rõ hoàn toàn sự phân bố và chuyển hóa thuốc trong cơ thể.
Nửa đời trong huyết thanh là 6 - 13 giờ. Sau khi truyền tĩnh mạch, có khoảng 2 -
13% lượng thuốc được thải qua nước tiểu dưới dạng ban đầu, như vậy là ngoài
thận còn có những đường đào thải khác.
Trên động vật thí nghiệm, paclitaxel được chuyển hóa tại gan. Ðộ thanh thải dao
động từ 0,3 đến 0,8 lít/giờ/kg (hay 6,0 - 15,6 lít/giờ/ m
2
).
CHỈ ĐỊNH
Ung thư biểu mô buồng trứng :
- Trị liệu đầu tay ung thư buồng trứng tiến xa hoặc bướu tồn lưu ( 1 cm) sau phẫu
thuật, dùng phối hợp với cisplatine.
- Trong trị liệu thứ nhì, ung thư buồng trứng đã di căn, sau khi thất bại với phương
pháp điều trị cổ điển bằng các dẫn xuất của platine.

Ung thư biểu mô vú :
- Trong điều trị hỗ trợ ung thư giai đoạn sớm, có hạch dương tính, dùng liên tiếp
sau phác đồ có chứa doxorubicine.
- Trong điều trị ung thư vú di căn đã thất bại sau một đợt hóa trị - hoặc tái phát sau
khi điều trị hỗ trợ. Thường các điều trị trước đó có chứa anthracycline, trừ khi nào
có chống chỉ định.
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ :
- Taxol dùng chung với cisplatine, được được chỉ định đầu tay để điều trị bệnh
nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, ở giai đoạn không thể phẫu thuật
và/hoặc xạ trị được.
Ngoài ra, Taxol còn dùng để điều trị Ung thư Kaposi có liên quan đến bệnh AIDS.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
- Chống chỉ định Taxol cho những bệnh nhân đã có phản ứng quá mẫn cảm nặng
với paclitaxel hoặc với bất cứ thành phần nào của thuốc, đặc biệt là với huile de
ricin polyoxyethylene (Crémophor EL).
- Không được điều trị bằng Taxol ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu trung
tính dưới 1.500/mm
3
.
- Phụ nữ có thai hay cho con bú : xem thêm phần Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

(Báo Thuốc và sức khoẻ, tuelinh.com,dược thư quốc gia)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×