Một số điểm về HbA1c
Ở người lớn, HbA chiếm khoảng 97 - 98%, HbA2 chiếm khoảng 2,5% và HbF
khoảng 0,5%. HbA gắn với glucose tại đoạn cuối với amino acid valin của chuỗi
beta. Quá trình gắn này gọi là "glycosylation" và hemoglobin bị glycosylate gọi là
HbA1.
Mặc dù HbA1 chiếm chủ yếu trong số hemoglobin gắn với glucose, quá trình
"glycosylation" có thể xảy ra tại các vị trí khác trong chuỗi globin và ở các
hemoglobin khác nữa ngoài HbA. Quá trình "glycosylation"hemoglobin xảy ra khi
hồng cầu tiếp xúc với glucose huyết tương.
Hemoglobin và glucose có thể tạo cầu nối ban đầu lỏng lẻo nhưng sau đó bền
vững, rất khó tách được hemoglobin và glucose. Đối với HbA1, phần cầu nối lỏng
lẻo thường chiếm 10% tổng số cầu nối HbA1 - glucose.
Sự hình thành HbA1 xảy ra rất chậm trong suốt đời sống hồng cầu (120 ngày), số
lượng HbA bị "glycosylation" phụ thuộc vào nồng độ glucose và thời gian tiếp xúc
với glucose.
HbA1 gồm 3 loại: A1a, A1b, và A1C, trong đó HbA1C chiếm 60 - 70% lượng
HbA1.
Vì HbA1 chiếm đa số hemoglobin bị glycosylate hoá ở điều kiện bình thường,
HbA1C do đó đại diện cho hemoglobin bị glycosylate. Loại huyết sắc tố
glycosylat A1C (HbA1C) thường chiếm 4 - 6% tổng số huyết sắc tố
Tăng nồng độ hemoglobin gắn glucose có thể gây nên bởi sự mới tăng nồng độ
glucose máu trong một thời gian ngắn (trong đó cầu nối lỏng lẻo bị ảnh hưởng đầu
tiên), nhưng thường là do tăng nồng độ glucose máu tương đối thường xuyên hay
do tăng nồng độ glucose máu ngắt quảng đủ gây nên tăng nồng độ glucose máu
trung bình ở mức cao bất thường (ở hai trường hợp này cầu nối bền vững bị ảnh
hưởng đầu tiên).
Tăng hemoglobin bị glycosylate có cầu nối bền vững bắt đầu khoảng 2 - 3 tuần
(thay đổi trong 1 - 4 tuần) sau khi nồng độ glucose máu trung bình tăng ổn định.
Đo hemoglobin bị glycosylate phản ánh nồng độ glucose máu trung bình trong 2 -
3 tháng trước đó (thay đổi 1 - 4 tháng).
Ngược lại, tăng hay giảm glucose ở mức tương đối (100mg/100ml hay
5,55mmol/l) xảy ra trong vòng 3 ngày trước khi đo HbA1 sẽ làm tăng thêm
hemoglobin bị glycosylate có cầu nối lỏng lẻo 15% (thay đổi 12 - 19%) so với
hemoglobin bị glycosylate.
Sự giảm đột ngột tự phát glucose máu thường ít gặp, vì vậy trong hầu hết các
trường hợp, nồng độ hemoglobin bị glycosylate bình thường là bằng chứng rất tốt
của glucose máu trung bình tương đối bình thường trong ít nhất 4 tuần.
Như vậy, huyết sắc tố glycosylat phản ánh mức glucose máu trong vòng trên dưới
8 tuần lễ trước khi đo và sẽ cho biết sự kiểm soát glucose máu trong thời gian dài.
ở bệnh nhân ĐTĐ nồng độ HbA1C khoảng 5 - 7% cho biết bệnh nhân đã được ổn
định glucose máu tốt trong 2 - 3 tháng trước.
Nếu HbA1C> 10% chứng tỏ glucose máu bệnh nhân không được kiểm soát tốt.
Ngược lại, trên bệnh nhân glucose máu cao, nếu điều trị tích cực giảm được
glucose máu thì huyết sắc tố kết hợp với glucose sẽ chỉ thay đổi sớm nhất sau 4
tuần.
Tóm lại, tăng nồng độ hemoglobin glycosylate hầu hết là do tăng glucose máu
trung bình trong một thời gian dài từ 2 - 3 tháng trước. Đo hemoglobin glycosylate
đã được áp dụng để giám sát hiệu quả điều trị ĐTĐ lâu dài, giám sát mức độ nhạy
cảm của bệnh nhân với điều trị cũng như giúp phân biệt rối loạn dung nạp glucose
trong một thời gian ngắn có liên quan đến stress (nhồi máu cơ tim cấp) và ĐTĐ.
Tỷ lệ HbA1C là một thông số tốt để giúp kiểm soát đường huyết nhưng không thể
dùng để chẩn đoán bệnh. Ngày nay, HbA1C được coi như một tiêu chí để đánh giá
kết quả của sự ổn định về chuyển hoá trên bệnh nhân ĐTĐ. Định lượng HbA1
hoặc HbA1C là thông số quan trọng trong đánh giá kiểm soát glucose máu lâu dài
trên lâm sàng và nó đã trở thành "tiêu chuẩn vàng" trong đánh giá hiệu quả điều
trị.
Bệnh nhân ĐTĐ nên được đo HbA1C mỗi 3 - 6 tháng một lần
Các yếu tố sau đây có thể ảnh hưởng đến kết quả đo HbA1C:
* Mất máu cấp hoặc mạn làm giảm đời sống hồng cầu và do đó sẽ làm giảm nồng
độ huyết sắc tố glycosylat. Nên cẩn thận biện luận kết quả khi có thiếu sắt, xuất
huyết tiêu hoá, nhiễm sắc tố sắt, tán huyết
* Trên bệnh nhân suy thận mạn, huyết sắc tố glycosylat có thể bị carbonyl hóa (sẽ
làm tăng kết quả HbA1), mặt khác cũng có thể giảm do tán huyết, xuất huyết tiêu
hoá.
* Một số bệnh huyết sắc tố cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả đo HbA1: huyết sắc
tố F, bệnh huyết sắc tố C, D, S.