Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Công nghệ tính toán thời cổ Phần 7 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.27 KB, 5 trang )

Công nghệ tính toán thời cổ -
Phần 7
Ngườidân ở Pakistan,Afghanistan,và vùng tây bắcẤn Độ ngày nayđã sống
định cư thành làngmạc vào khoảng năm 4000tCN. Trongnghìn năm tiếp sau đó,
một xãhội thịnh vượng đã phát triểnở đó. Chúng ta gọi đó là Nền văn minhThung
lũng Indus vì nó phát triểndọc theo thung lũng sôngIndus.
Các nhà sử học khônghề biết đến Nền vănminh Thunglũng Indus mãi cho
đến thập niên 1920. Khiấy, các nhà khảo cổ tìm thấy tàn tích của những công trình
xây dựng cổ đại bằnggạch vàbắt đầukhảosát khuvực trên. Họ phát hiện rathành
phố Harappavào năm1921 vàMohenjo-darovào năm 1922.Cuối cùng, các nhà
khảo cổ đã vén màn di tích gồm hàngtrăm thành phố và thị tứ.
Bằng chứng cho thấy Nền văn minh Thung lũng Industồn tại từ năm 2500
đến 1500tCN. Chúngta vẫn không rõnguyêndo nền văn minhấybị đổ vỡ. Nhưng
chúng ta biết người Ấn Độ cổ đại đã có một vài tiến bộ trong công nghệ tính toán.
Sau này,nhữngnhóm người ở Ấn Độ còn thực hiện những phát triển quantrọng về
tính toán.
CHỮ SỐ ARAB = CHỮ SỐ ẤN ĐỘ
Sự vinh danhdành chonhững tiến bộ côngnghệ chủ chốt đôikhi bị mất mát
trong lịch sử. Đó chắc chắn là trường hợp xảy ravới những chữ số đượcsử dụngở
đa phần thế giới hiệnđại. Chúng ta thường gọi chúnglà chữ số Arab – nhưng thật
ra thì người ẤnĐộ cổ đại đã phát triển chúng.
Hệ thống số Ấn Độ cổ đại chophép người ta viết ra bất kìcon số nào, cho dù
nó lớnbao nhiêu, với chỉ 10 kí tự: 0, 1,2, 3, 4,5, 6,7, 8, và9. Những phiên bản đầu
tiên đượcbiết tới của một vài chữ số thuộc hệ thống nàyxuất hiện trên những cột
trụ xây dựngbởi Ashoka, một nhà vuaẤn Độ, vào khoảngnăm 250tCN. Sau đó,
trong thế kỉ thứ nhấtsCN, nhữngphiên bản sơ khai của hệ thống số từ 1đến 9 đã
xuấthiện. Nhữngchữ số sơ khainàyđã được tìm thấy trên vách hangđộngở Nasik,
Ấn Độ. Chữ số 0 có lẽ đã được đưa vào sử dụng khoảng năm 600 sCN.
NgườiTrung Đông đã học được những con số khi giao thươngvớiẤn Độ. Họ
sửa lại hệ thống ấy chomục đích sử dụng của riêng họ. Vào năm 976,người châu
Âu đã học hệ thống số trên từ Trung Đông. Người châu Âukhôngbiết về nguồn gốc


của nhữngchữ số đó là ở Ấn Độ cổ đại, nênhọ đặt tên cho chúnglà chữ số Arab
(một tộc người ở TrungĐông).Nhưng cácnhà toán họchiện đại thì biết đếnnguồn
gốc Hindu,hay Ấn Độ của hệ thốngtrên. Từ thập niên 1920, hệ thống số trên còn
được gọi là hệ Hindu-Arab.
SỰ THAY ĐỔI HÌNH DẠNG CỦA CÁC CHỮ SỐ HINDU-ARAB
Các chữ số Hindu-Arabmà chúngta sử dụng ngàynay có xuất xứ từ những
kí tự Ấn Độ cổ đại. Nhưngnhững kí tự hồi thế kỉ thứ nhất nàytừ 1 đến 9 đều trông
hơi khác. Chúng làmột phần của hệ thống chữ viết Brahmi.Kí tự cho 1, 2 và 3 đơn
giản là những vạch ngang. Kí tự cho 6 và 7 lúc đầutrông tựa như dạngthức của
chúng ngày nay.Nhưng chúng đã thayđổi theonămtháng. Vào những năm 900, 1
là một vạch đứng thay cho một vạch ngang.Những người chép sách phải nối các
nét ở chữ số 2và 3. Vìthế, những kí tự này trông giống hệt như nhữngkí tự hiện
đại. Chính nhucầu viết tắt đã ngăn những người chép sáchnâng dụng cụ viếtlên
khỏi trang giấy. Những kí tự khác cũng đã thay đổi theo những kiểu tương tự.Và
vào lúc này,kí tự cho số 0 đã được sử dụng.
Khoảngnăm 1100, kiến thức về hệ số đếmẤn Độ đã được lan rộng. Người
dân ở những nơi khác thuộc châu Ávà Bắc Phibắtđầu sử dụng những chữ số đó.
Những phiên bản khác nhau cho cáckí tự đã được phát triển ở mỗi vùng.Đôi khi,
các kí tự bị quay điso với những phiên bảntrước đó. Mộtsố chữ số thayđổi qua
một vài sai lệch nhỏ, thí dụ như độ nghiêng hoặc chiều dàicủa một nét nào đó.
Ở Đông Phi và Trung Đông, cácchữ số đó cuối cùng đã trở thành chữ số
trong hệ số Arab.Ở nơi khácthuộc châu Á, các kí tự đó đã phát triển thànhnhững
dạng thức hiện đại của chúngtronghệ thống số đếm TâyTạng, Thái Lan, và Việt
Nam.Các kí tự Ấn Độ cũng từ từ thay đổi ở Bắc Phivà Tây BanNha. Vào khoảng
năm 1500,chúng đã trở thành những chữ số hiệnđại mà chúngta quenthuộc từ 0
đến 9.
Công nghệ tính toán thời cổ

×