1
TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: “Tính tất yếu khách quan và con đường hình thành
công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam”.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX các Tập đoàn kinh tế đã nối tyếp nhau ra đời ở các nước
tư bản. Đó là một tổ chức tyên tyến đại diện cho trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và nền
kinh tế xã hội, là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích kinh tế. Ngày nay
nhiều Tập đoàn kinh tế đóng vai trò chi phối và tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế của các
quốc gia trên thế giới.
Trong những năm qua, ở nước ta, quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp với tính chất,
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện cải cách toàn
diện các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện lại việc sắp xếp các doanh nghiệp như: cổ phần hoá, bán
khoán, cho thuê các doanh nghiệp Nhà nước. Trong công cuộc cải cách đó, Đảng và Nhà nước ta cũng
chủ trương thành lập các Tổng công ty với mục tyêu là hình thành nên những Tập đoàn kinh tế mạnh,
kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước có khả năng cạnh tranh trên
thị trường khu vực và quốc tế.
Đối với nước ta, mô hình công ty mẹ - công ty con là một khái niệm mới, một phạm trù mới
trong lĩnh vực kinh tế học, tuy trên thế giới khái niệm về Tập đoàn kinh doanh và mô hình tập đoàn
theo hình thức công ty mẹ - công ty con đã qua một thời gian phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hoá
về kinh tế mạnh mẽ để tránh khỏi tụt hậu ngày càng xa, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung.
Việc hình thành và phát triển các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con sẽ phát huy các
ngành kinh tế mũi nhọn giúp nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc thành lập các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con đang đặt ra rất nhiều
vấn đề mà Đảng, Nhà nước và các bộ ngành liên quan phải giải quyết. Từ nhu cầu cấp thiết và tính chất
quan trọng đó, em đã đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề này trong đề án Kinh tế chính trị: "Tính
tất yếu khách quan và con đường hình thành công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam".
Do còn nhiều hạn chế nên đề án không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Chúng em xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của Tyến sĩ Lê Thục. Chúng em cũng rất mong nhận được sự góp ý
của thầy để hoàn thiện hơn nữa đề án.
2
2
NỘI DUNG CHÍNH
Phần I: Cơ sở lý luận của việc hình thành
mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam
1.1. Khái quát chung về công ty mẹ - công ty con
1.1.1. Khái niệm
Công ty mẹ là công ty có ít nhất một công ty con trở lên; có thể là Doanh nghiệp nhà nước,
hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần
Công ty con là công ty có 100% vốn của công ty mẹ hoặc đa sở hữu trong đó có trên 50% vốn
của công ty mẹ. Như vậy công ty con phải chịu sự kiểm soát (chi phối) của công ty mẹ.
Mô hình công ty mẹ - công ty con tồn tại chủ yếu dưới hai dạng sau:
Một là, Công ty quản lý vốn: mục tyêu chủ yếu của công ty này là đầu tư vào các công ty khác.
Cơ cấu tổ chức của nó bao gồm các bộ phận điều phối, lập kế hoạch và tyến hành kinh doanh trong
pham vi các công ty con.
Hai là, Công ty quản lý hoạt động: là mô hình đặc trưng của công ty mẹ và công ty con của
chúng. Công ty này có chức năng kinh doanh nhưng đồng thời sở hữu và kiểm soát nhóm các công ty
con của nó. Các công ty được tổ chức thành các pháp nhân riêng được tham gia các giao dịch một các
độc lập.
1.1.2. Đặc điểm
Mặc dù tên gọi khác nhau, hình thức tổ chức của các công ty mẹ và công ty con khác nhau
nhưng nói chung mô hình công ty mẹ công ty con có một số đặc điểm chung cơ bản như sau:
Thứ nhất là, có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và phạm vi hoạt động.
Do công ty mẹ - công ty con vừa có sự tích tụ của bản thân doanh nghiệp lại vừa có sự tập trung
giữa các doanh nghiệp. Vì vậy nó vừa nâng cao được trình độ xã hội hoá sản xuất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, vừa có năng lực cạnh tranh mạnh hơn các công ty riêng lẻ.
Điều này thể hiện rất rõ, trước hết ở quy mô vốn của công ty mẹ - công ty con. Trong công ty
mẹ - công ty con thì vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, được bảo toàn và phát triển không
ngừng, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho công ty mẹ - công ty con.
Nhìn chung các mô hình công ty mẹ - công ty con có hai con đường cơ bản để tạo ra vốn:
Cách thứ nhất, tự tạo vốn theo con đường hướng nội là chủ yếu, bằng cách tích luỹ nội bộ nền
kinh tế. Nguồn vốn chủ yếu là vốn nhà nước thông qua những cơ chế khác nhau:
3
3
- Nhà nước cấp vốn ban đầu dưới dạng đầu tư trực tyếp hoặc góp vốn cổ phần lớn nhất.
- Tạo cơ chế để công ty tự tích luỹ vốn như cho phép để lại tất cả hoặc một phần lợi nhuận thu
được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, không đánh thuế thu nhập.
- Cho vay tín dụng ưu đãi, cho phép huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu
- Sát nhập, hợp nhất các công ty lớn cùng ngành nghề hoặc nằm trong cùng một quy trình công
nghệ có liên quan đến sản phẩm cuối cùng trên cùng một địa bàn.
Cách thứ hai, tạo dựng vốn theo con đường hướng ngoại là thu hút nguồn đầu tư thông qua các
dự án đầu tư nước ngoài, liên doanh, liên kết, phát hành trái phiếu, cổ phiếu và vốn vay nước ngoài.
Với số vốn lớn, công ty mẹ - công ty con có khả năng chi phối và cạnh tranh mạnh trên thị
trường, mở rộng nhanh chóng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng
cao chất lượng sản phẩm và vì vậy đạt doanh thu lớn.
Một vấn đề nữa là về lực lượng lao động trong công ty mẹ - công ty con. Lực lượng lao động
trong công ty mẹ - công ty con không chỉ lớn về số lượng, mà còn mạnh mẽ về chất lượng, được tuyến
chọn và đào tạo rất nghiêm ngặt.
Phạm vi hoạt động của công ty mẹ - công ty con rất rộng, không chỉ ở phạm vi lãnh thổ một
quốc gia, mà ở nhiều nước hoặc phạm vi toàn cầu.
Với quy mô vốn lớn, nhiều lao động, áp dụng sự tyến bộ khoa học kĩ thuật hiện đại về thông tyn
liên lạc, phương tyện giao thông vận tải các công ty mẹ - công ty con đã thực hiện phân công lao
động trong nội bộ công ty mẹ - công ty con như bố trí các điểm sản xuất, xây dựng mạng lưới tyêu thụ
sản phẩm, thậm chí cả các khâu khác nhau của sản xuất sản phẩm trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ hai là, các công ty mẹ - công ty con đều hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực.
Chiến lược sản phẩm và hướng đầu tư luôn thay đổi phù hợp với sự phát triển của công ty mẹ -
công ty con và môi trường kinh doanh, nhưng mỗi ngành đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực
đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của công ty mẹ - công ty con. Qua quá trình hoạt động,
phát triển, quy mô và cơ cấu kinh doanh của công ty mẹ - công ty con dần được mở rộng, đa dạng hoá
các loại hình kinh doanh, phù hợp với đòi hỏi của thị trường và sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh
những đơn vị sản xuất hoặc thương mại, các công ty mẹ - công ty con mở rộng các hoạt động sang lĩnh
vực khác như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, nghiên cứu khoa học
Các công ty mẹ - công ty con hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực là để phân tán rủi ro, mạo hiểm
vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm cho hoạt động của cả công ty mẹ - công
ty con luôn được bảo toàn và hiệu quả, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng lao động
của công ty mẹ - công ty con.
4
4
Thứ ba là, các công ty mẹ - công ty con đa dạng về cơ cấu tổ chức, về sở hữu, về pháp nhân
và thể nhân.
Mô hình công ty mẹ - công ty con rất đa dạng về cơ cấu tổ chức và pháp lý. Nó có thể là loại
hình hoạt động mà các công ty con vẫn giữ nguyên sự độc lập về tính pháp lý, việc huy động vốn và
các hoạt động kinh tế được duy trì bằng các hợp đồng kinh tế, các chủ sở hữu nhỏ vẫn có quyền điều
hành các công ty của mình và vẫn có tư các pháp nhân riêng của mình. Một loại hình khác của mô hình
công ty mẹ - công ty con là việc các công ty con mất quyền độc lập về tính thương mại và sản xuất, các
chủ sở hữu trở thành các cổ đông của "công ty mẹ".
Công ty mẹ - công ty con là một tổ hợp các công ty, bao gồm "công ty mẹ" và các "công ty con,
cháu" phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công
ty con, nó chi phối các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Do vậy trong mô hình
công ty mẹ - công ty con rất đa dạng về sở hữu.
1.1.3. Cơ chế hoạt động
Các công ty mẹ - công ty con là những doanh nghiệp độc lập , có tư cách pháp nhân, hợp tác
theo nguyên tắc mọi thành viên đều bình đẳng trước pháp luật, không có quan hệ cấp trên, cấp dưới
theo kiểu trật tự hành chính như các doanh nghiệp trong tổng công ty hiện nay, mà thông qua liên kết
bằng vốn đầu tư hoặc các liên kết khác theo quy định của hợp đồng và điều lệ công ty.
Ta có thể mô hình hoá cơ cấu tổ chức của một công ty mẹ - công ty con như sau:
Mô hình cơ cấu tổ chức của công ty mẹ - công ty con.
Công ty mẹ và các công ty con có mối quan hệ phụ thuộc, hỗ trợ về mặt chiến lược, tài chính,
tín dụng. Các công ty con phụ thuộc và công ty mẹ nhằm phục vụ mục tyêu chung của cả công ty mẹ -
công ty con. Mục tyêu của công ty con thường trùng với mục tyêu của công ty mẹ. Công ty mẹ - công
ty con chỉ tồn tại và phát triển vững mạnh khi xây dựng được cơ chế hoạt động dựa trên sự thống nhất
lợi ích kinh tế của từng thành viên với lợi ích chung của cả công ty và thực hiện chủ yếu bằng hợp
đồng kinh tế.
5
5
công ty mẹ
công Ty công ty công ty công ty chi
con 1 con 2 con 3 liên kết 1 nhánh 1
công ty công ty chi
con 3.1 liên kết 3 nhánh 3.1
Công ty mẹ sở hữu lượng vốn, cổ phần lớn trong các công ty con. Nó chi phối các công ty con
về tài chính và chiến lược phát triển. Vốn sở hữu trong công ty mẹ - công ty con là sở hữu hỗn hợp
(nhiều chủ) trong đó có một chủ (công ty mẹ) đóng vai trò khống chế, chi phối. Phần lớn các công ty
con mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ thường là công ty có cổ phần, được thành lập và hoạt động
theo luật doanh nghiệp của nước sở tại, có thể có vốn góp của nhà nước hoặc nhà nước có 100% vốn,
hoặc nhà nước có trên 50% cổ phần.
Công ty con cũng thường là công ty cổ phần, có tư cách pháp nhân riêng, được thành lập và
hoạt động theo luật doanh nghiệp của nước sở tại. Trong đó công ty mẹ sở hữu 100% vốn hoặc ít nhất
51% cổ phần, có quyền bỏ phiếu trong các công ty con, hoặc công ty mẹ có khả năng kiểm soát, khống
chế mặc dù không nắm đa phần sở hữu, các công ty con có thể ở trong nước hay ở nước ngoài.
Trong cơ cấu tổ chức của công ty mẹ - công ty con còn có chi nhánh và các công ty liên kết.
Giữa các công ty con có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ với nhau và cùng
phụ thuộc vào công ty mẹ. Mỗi công ty con được phân công hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng
phân đoạn, theo chuyên ngành, theo sản phẩm hàng hoá bán ra hoặc theo khu vực hoạt động, không
trùng lắp, cạnh tranh nội bộ. Các công ty con có thể phối hợp các hoạt động của mình theo kiểu liên kết
dọc hoặc liên kết ngang hoặc chỉ giới hạn trong một chuyên ngành nào đó. Liên kết dọc là sự liên kết
giữa các công ty con trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất, trong đó mỗi doanh nghiệp đảm
nhận từng công đoạn nhất định. Liên kết ngang là sự liên kế giữa các công ty con hoạt động trong cùng
một ngành nghề, có quan hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế - kỹ thuật, thị trường tyêu thụ, xuất nhập
khẩu. Trong công ty mẹ - công ty con cũng thường có sự liên kết hỗn hợp, nghĩa là có cả hai hình thức
liên kết ngang và liên kết dọc.
Việc thiết lập công ty con, chi nhánh hay công ty liên kết thương tuân thủ một số nguyên tắc
phân bổ theo sản phẩm, theo vùng lãnh thổ, hoặc kết hợp cả hai.
Theo mô hình tổ chức của công ty mẹ - công ty con ở trên thì mỗi công ty con khu vực là một
khối, mỗi công ty chỉ sản xuất một loại sản phẩm ở một nước nhất định là một đơn vị kinh doanh của
khối. Mỗi đơn vị kinh doanh của khối có các phòng chức năng như phòng tài chính, tyếp thị, phân
phối, sản xuất, nhưng tất cả đều tập trung cho việc sản xuất có hiệu quả và chất lượng. Giám đốc của
đơn vị kinh doanh là người chịu hoàn toàn trách nhiệm trước giám đốc khối về hoạt động của đơn vị.
Mỗi khối chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty mẹ - công ty con trong một khu vực địa lý
nhất định, và giám đốc khu vực chịu trách nhiệm trước giám đốc điều hành trung tâm về hoạt động của
khối trong khu vực. Nếu trong khu vực, sản phẩm sản xuất và phân bổ của công ty mẹ - công ty con đa
dạng nhiều loại thì trong mỗi khối khu vực có thể thành lập những tyểu khối theo dõi, giám sát riêng
đối với một hoặc một số sản phẩm ở trong khu vực.
6
6
1.1.4. Vai trò
Mô hình công ty mẹ - công ty con ra đời trong nền kinh tế có vai trò rất to lớn, thể hiện chủ yếu
trên những mặt sau:
Thứ nhất là, sự hình thành và phát triển của công ty mẹ - công ty con làm tăng khả năng kinh tế
của cả công ty mẹ và các công ty con. Việc tập trung các công ty vào trong một đầu mối làm cho họ có
nhiều điều kiện thuận lợi cho việc chống cạnh tranh với các công ty lớn khác. Mô hình công ty mẹ -
công ty con là một biện pháp hữu hiệu để chống sự xâm nhập một cách ồ ạt của các công ty khổng lồ
trên thế giới dối với các nước đang phát triển, và giúp cho sản xuất trong nước có thể dứng vững và
từng bước vươn ra được các thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai là, công ty mẹ - công ty con sẽ khắc phục khả năng hạn chế về vốn của từng công ty
riêng lẻ. Khi có nguồn vốn lớn công ty mẹ - công ty con sẽ đàu tư đúng hơn vào các dự án có hiệu quả
cao nhất, góp phần tăng nguồn thu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba là, mô hình công ty mẹ - công ty con có tác dụng rất to lớn trong việc cung cấp và trao
đổi thông tyn va nhưng kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công
nghệ vào sản xuất
Thứ tư là, việc hình thành các công ty mẹ - công ty con sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội của từng
địa phương hay một quốc gia, nó giải quyết được việc làm cho một phần dân cư tại khu vực, làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề, thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế,
các khu công nghiệp và làm tăng khả năng lớn mạnh của nền kinh tế.
Thứ năm là, mô hình công ty mẹ - công ty con giữ vai trò quan trọng đối với các nước đi sau
trong việc tyến kịp các quốc gia phát triển về kinh tế.
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành, phát triển mô hình công ty mẹ - công ty
con ở Việt Nam
1.2.1. Tính tất yếu khách quan
Mô hình công ty mẹ - công ty con đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển
của kinh tế thế giới. Dưới dạng các thoả ước, hợp đồng liên minh liên kết, các tập đoàn từng bước nắm
lấy các ngành, các lĩnh vực hoạt động chủ chốt có lợi nhuận cao hình thành một hệ thống các tập đoàn
lớn bao gồm hàng trăm hàng ngàn các công ty vừa và nhỏ phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào công
ty mẹ về tài chính, chiến lược kinh doanh, công nghệ kĩ thuật. Sở dĩ mô hình công ty mẹ - công ty con
được hình thành, có sức sống mãnh liệt và có sự phát triển không ngừng như vậy bởi vì nó phù hợp với
các qui luật khách quan và những xu thế phát triển của thời đại.
7
7
Thứ nhất: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tyến bộ khoa học công nghệ và
liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội đến qui mô của
sản xuất và tyêu thụ sản xuất kinh doanh không còn mang tính xhaats manh mún rời rạc và sở hữu
không còn là sở hữu cá thể nữa mà đã và đang đi sâu vào xã hội hoá vào hợp tác phân công vào sở hữu
hỗn hợp. Công ty mẹ - con với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế tổ chức kinh doanh tổ chức liên
kết kinh tế có nghĩa là nó là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất cần phải ra đời phát triển để đáp
ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
Thứ hai: Qui luật tích tụ và tập trung vốn và sản phẩm.
Mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là một cơ thể sống một tế bào của nền kinh tế. Nó
phải tồn tại phát triển trong mội trường cạnh tranh không ngừng do đó phải tái sản xuất mở rộng không
ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất. Trong quá trình này hoặc
doanh nghiệp tích luỹ vốn từ lợi nhuận đem lại và tăng thêm từ nguồn vốn từ các nguồn khác nhờ vậy
mà vốn và khả năng sản xuất của doanh nghiệp được nâng cao: hoặc doanh nghiệp mạnh thôn tính
nhận sự sáp nhập của các doanh nghiệp yếu và nhỏ hơn, do đó vốn và khả năng sản xuất của doanh
nghiệp được nâng lên. Trong quá trình vận động khách quan như vậy công ty mẹ - công ty con sẽ ra
đời và phát triển.
Thứ ba là: Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh để giành ưu thế trong sản xuất và tyêu thụ sản phẩm là qui luật hoạt động của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường. Cuộc cạnh tranh nghiệt ngã không bao giờ chấm dứt ấy sẽ dẫn đến hai
xu hướng:
- Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính nhập vào mình các doanh nghiệp
bị đánh bại, do vậy trình độ tập trung hoá sản xuất và vốn được nâng lên.
- Nếu cạnh tranh qua nhiều năm mà không phân thắng bại thì trong số các doanh nghiệp đó sẽ
có sự liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh hơn nữa. Quá trình liên kết giữa các doanh nghiệp có thể
diễn ra theo các hình thức liên kết ngang, liên kết dọc hay liên kết hỗn hợp. Liên kết ngang là liên kết
diễn ra giữa các công ty hoạt động trong cùng một ngành. Liên két dọc là sự liên kết giữa các công ty
trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó một công ty đảm nhận một bộ phận hoặc
một số công đoạn nào đó. Trong thực tế ngày càng xuất hiện nhiều quan hệ liên kết ngang và dọc kết
hợp gồm rất nhiều các công ty hoạt động trong lĩnh vực khác nhau. Đó là sự liên kết đa ngành đa lĩnh
vực. Như vậy công ty mẹ - con ra đời phát triển là sản phẩm tất yếu của quá trình cạnh tranh liên kết để
tối đa hoá lợi nhuận.
8
8
Thư tư là: Tyến bộ khoa học - công nghệ
Yếu tố quyết định cho các doanh nghiệp thắng lợi trong cạnh tranh và đạt lợi nhuận cao là việc
nghiên cứu và ứng dụng tyến bộ khoa học kĩ thuật công nghệ. Để có sản phẩm tyến bộ khoa học công
nghệ hay nói cách khác để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn tyến hành trong thời gian nhiều
năm trang khi đó độ rủi ro lại cao cần có lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật đủ mạnh. Một doanh
nghiệp nhỏ manh mún biệt lập không đủ sức làm được việc trên. Điều đó đòi hỏi phải có doanh nghiệp
lớn mà mô hình công ty mẹ - con là một loại hình tyêu biểu.
1.2.2 .Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của mô hình
công ty mẹ - công ty con
1.1.2.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội
Là những tổ hợp kinh tế lớn đa dạng , công ty mẹ - con chỉ có thể hình thành và phát triển trong
những điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp. Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế thế giới có thể thấy được
mô hình công ty mẹ - công ty con đã ra đời và phát triển trong những điều kiện cơ bản sau đây:
- Trình độ tích tụ, tập trung vốn
Quá trình tích tụ và tập trung vốn là một quá trình lâu dài được thực hiện tại rất nhiều lĩnh vực
kinh tế trên thế giới. Việc phát triển nhanh chóng của các nền kinh tế thế giới vào những năm cuối thế
kỉ XX đã và đang hình thành nên các thị trường tài chính lớn trên thế giới chi phối một phần lớn các
hoạt động kinh tế. Nó hình thành các khu vực tài chính bằng các hiệp định được ký kết giữa các chính
phủ hoặc thông qua việc tham gia vào các liên minh kinh tế tại các khu vực. Ví dụ việc thành lập đồng
tyền chung châu Âu. Những điều này đã giúp cho có thể tích tụ và tập trung một nguồn vốn lớn và điều
tyết hiệu quả nguồn vốn này. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều công ty lớn được thành lập từ sự liên
kết của nhiều công ty nhỏ. Nguồn vốn của các công ty này được đóng góp từ nhiều nguồn vốn nhỏ. Bởi
vì muốn cạnh tranh được trên thị trường thì các công ty này phải đủ mạnh tức là có một nguồn vốn dồi
dào. Quá trình tích tụ và tập trung vốn vào một đàu mối và được quản lí bởi một công ty tài chính là
một quá trinh phát triển tuân theo qui luật khách quan. Quá trình này đã được thực hiện kết quả cạnh
tranh trên thị trường.
- Trình độ chuyên môn hoá, hợp tác hoá kinh doanh
Ngày nay khoa học và công nghệ sản xuất đều tyến nhanh và tyến mạnh làm cho phân công
quốc tế và hợp tác chuyên ngành có xu thế bị chia nhỏ. Xét về xu thế phân công quốc tế hiện nay sự
phân công theo trình độ của trình tự công nghệ trong sản xuất của nội bộ ngành phát triển nhanh chóng.
Loại phân công theo trình độ này có đặc trưng là các nước khác nhau về quá trình công nghệ sản xuất
sẽ tiến hành chuyên môn hoá sản xuất đối với các khâu của trình tự công nghệ gia công. Sự phân công
theo mức độ chuyên môn hoá sản xuất các linh kiện phụ tùng của sản phẩm cũng ngày một rõ rệt. Kĩ
9
9
thuật sản xuất truyền thông của các nước đang phát triển so với kĩ thuật hiện đại có sự khác biệt lớn.
Kết quả là một nước một đơn vị kinh tế muốn có ưu thế về sản xuất tất cả các phụ tùng linh kiện đều
không thể thực hiện được và không kinh tế. Do vậy việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá kinh doanh
được đặt ra hàng đầu tại các nước.
- Trình độ phát triển của khoa học - công nghệ
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong những năm gần đây là nhân tố quan
trọng thúc đẩy kinh tế phát triển .Những thành quả của công nghệ máy vi tính, công nghệ sinh học, vật
liệu mới, quang điện, nguồn năng lượng mới được áp dụng rộng rãi vào sản xuất và nâng cao sức sản
xuất lên rất nhiều. Lực thúc đẩy công nghiệp hiện đại là do khoa học công nghệ hiện đại, sức cạnh
tranh của các xí nghiệp hiện đại thì bắt nguồn từ sự đổi mới công nghệ và sự chuyển hoá thành quả
khoa học thành hàng hoá. Bất kể nước đang phát triển hay phát triển thì phát triển kinh tế đều phải dựa
vào cách mạng khoa học công nghệ và nguồn lực thúc đẩy sự tyến bộ của khoa học công nghệ không
ngừng được tăng cường. Do đó hàm lượng khoa học công nghệ trang công nghiệp thế giới ngày càng
cao, sức cạnh tranh của kĩ thuật công nghiệp ngày càng mạnh. Mặt khác, khoa học công nghệ vá sản
xuất, thị trường nối tyếp nhau ngày càng chặt chẽ. Việc nhấn mạnh hiệu ích kinh tế và khả năng thâm
nhập thị trường đã là mục tiêu hàng đầu của các xí nghiệp. Những yếu tố nói trên là môi trường rất
quan trọng cho sự liên kết các công ty riêng lẻ thành công ty mẹ - công ty con
- Trình độ phát triển của thị trường
Trong quá trình phát triển của các nền kinh tế dù theo hình thức nào đều phải xây dựng một nền
tảng ban đầu đó là các nguồn vốn, lao động… nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển sẽ tăng khả
năng cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Quá trình phát triểnthị trường hiện nay đang được hình thành với
sự tác động tổng hợp của các qui luật trong sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường. Những qui
luật chủ yếu là qui luật giá trị, qui luật giá trị thặng dư, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật
lưu thông tiền tệ. Thông qua các qui luật có thể điều tyết được hoạt động của các đơn vị kinh tế.Thị
truwongf thế giới hiện nay đang là một thị trường rất rộng lớn được hình thành qua nhiều giai đoạn bao
trùm lên tất cả các nền kinh tế trên thế giới. Việc hình thành các tổ chức kinh tế trên thế giới về chính
trị thương mại tài chính đã tác động mạnh mẽ lên thị trường. Thị trường thế giới hiện nay cũng đã hình
thành ở nhiều khu vực kinh tế và hỗ trợ nhau cùng phát triển vừa hợp tác chống cạnh tranh, đó là các
thị trường khu vực hoặc các diễn đàn và các tổ chức các nước có cùng quan điểm. Việc hình thành
nhiều khu vực thị trường sẽ làm cho cạnh tranh trên thị trường thế giới càng mạnh mẽ dẫn đến thúc đẩy
việc phát triển nhanh chóng các công ty mẹ - công ty con xuyên quốc gia hoạt động tại rất nhiều lĩnh
vực.
- Trình độ quản lí vĩ mô, vi mô
10
10
Trình độ quản lí kinh tế vĩ mô vi mô quốc tế đang được phục hồi và phát triển, các nền kinh tế
ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nên ảnh hưởng của các quyết định về chính sách của một nước sẽ được
nhân rộng ra các nước khác. Mối liên hệ chặt chẽ ngày càng tăng giữa các nước trong cùng một khu
vực cũng thấy lí do phải tạo ra một mạng lưới khu vực nhằm ngăn chặn và chống lại khủng hoảng kinh
tế. Vì mối liên kết thương mại và tài chính ngày càng tăng giữa các nước trong khu vực nên nếu một
nền kinh tế hoạt động kém sẽ có thể ảnh hưởng sâu sắc đến các nền kinh tế láng giềng. Thực tế này đòi
hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ và hỗ trợ của các nước láng giềng. Các công ty mẹ - công ty con là
công cụ vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế. Trình độ quản lí vi mô, vĩ mô cũng là yếu tố thúc
đẩy hình thành và bảo đảm phát triển vững chắc các công ty mẹ - con.
- Trình độ khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế
Hiện nay xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mạnh mẽ. Xu thế chuyển động
của cuộc cạnh tranh thế giới giữa các doanh nghiệp của các nền kinh tế chủ yếu trên hành tinh đòi hỏi
ngày càng khẩn thiết các nhà lãnh đạo phải vượt qua giai đoạn hội nhập chính trị quốc tế trên bề mặt,
nói cách khác là đòi hỏi các nhà lãnh đạo không được bằng lòng với việc giảm bớt những trở lực ngăn
cản các hình thức hoạt động buôn bán trao đổi, ngăn chặn hoạt động quốc tế ở các đường biên giới mà
phải cam kết đi sâu hơn nữa vào một sự xâm nhập chính trị bằng cách điều hoà chính sách đối nội.
Những khác biệt trong các chính sách quốc gia chi phối cạnh tranh, những qui chế tài chính những tyêu
chuẩn của sản phẩm của môi trường, những điều kiện về việc làm những thị trường công, những trợ
cấp của nhà nước cho khoa học và công nghệ… là những nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến khả năng
của doanh nghiệp phải đương đàu với sự cạnh tranh trên các thị trường khác nhau. Những tình hình
trên đây dẫn đến sự liên kết các doanh nghiệp thành những công ty mẹ - công ty con lớn để đối phó với
thời cuộc.
1.2.2.2. Quan điểm và chính sách của một số nước và vùng lãnh thổ với việc phát triển mô hình
công ty mẹ - công ty con
Quan điểm và chính sách của chính phủ có tác động rất lớn thậm chí có tính chất quyết định đối
với sự hình thành và phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con.
- Nhật Bản
Chính phủ Nhật Bản áp dụng nhiều biện pháp nhằm phát triển mạnh công nghiệp. Lãi suất cho
vay thấp của các tổ chức tài chính của chính phủ, sự hỗ trợ cho việc giới thiệu công nghệ nước ngoài và
các biện pháp khác nhằm hỗ trợ các ngành công nghiệp sản xuất linh kiện đã tạo điều kiện cho việc
giảm chi phí sản xuất linh kiện và cải tyến chất lượng sản phẩm. Chính phủ Nhật bản kiểm soát rất chặt
thị trường vốn. Do các hạn chế khắc nghiệt đối với thị trường chứng khoán việc thu hút đầu tư qua hình
thức cổ phần rất tốn kém và các hãng chủ yếu dựa vào vay vốn của ngân hàng. Nhiều hãng cùng vay
11
11
vốn ngân hàng đã có quan hệ rất chặt chẽ với nhau và hình thành nên các tập đoàn gọi là keiretsu .
Ngân hàng tài trợ cho các công ty thành viên có vai trò rất quan trọng. Ngân hàng thực hiện chức năng
kiểm soát các công ty thành viên nhằm đảm bảo các công ty được quản lí tốt. Các công ty thành viên
trong tập đoàn vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau.
12
12
- Malaysia
Để thực hiện ké hoạch kinh tế quốc gia và tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp mới
như ô tô, điện tử… chính phủ Malaysia đã thành lập các công ty quốc doanh bao gồm các công ty của
chính phủ, các công ty công. Đến cuối thập kỉ 70 Malaysia tyến hành tư nhân hoá khu vực kinh tế quốc
doanh. Sau khi được tư nhân hoá một số công ty đã phát triển trở thành các tập đoàn lớn.
- Đức
Các doanh nghiệp lớn có tên concern hoạt đọng với nhiều chi nhánh dưới sự kiểm soát tài chính
của một cá nhân hoặc một công ty. Cơ cấu tổ chức của concern ở Đức theo kiểu phối hợp chiều dọc.
Cartels có cơ cấu theo kiểu phối hợp chức năng marketyng. Các hợp đồng cartel thường ngắn hạn và
được thoả thuận lại liên tục. Cartels chủ yếu là các hợp đồng tư nhân dựa trên quyền tự do của các hiệp
hội. Bản thân trong các thoả thuận hợp tác này vẫn có cạnh tranh khá mạnh .Người Đức coi cartels là
một công cụ phòng tránh sự tập trung của cải quá mức. Cartel giảm mức độ tập trung của cải và cho
phép các hãng nhỏ hơn có thể trụ lại.
- Hàn Quốc
Chiến lược phát triển của hàn Quốc là định hướng xuất khẩu. Chính phủ hàn Quốc và giới kinh
doanh đã có mối quan hệ rất chặt chẽ trong việc thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu này. Tổng
thống Pax Chung Hê nghĩ rằng các doanh nghiệp lớn là không thể thiếu được cho tăng trưởng kinh tế
khi khu vực doanh nghiệp lớn được định hướng thông qua các mục tyêu quốc gia. Vào những năm
1950, viện trợ nước ngoài, những khoản hỗ trợ đặc biệt của chính phủ được phân bổ trên cơ sở ưu tyên
cho những công ty đặc biệt có quan hệ gần gũi với chính phủ. Vì các cơ quan thuế không nắm được
luồng vốn chu chu chuyển giữa các công ty chi nhành của công ty lớn gọi là chaebol , một số công ty
lớn đã lợi dụng được nhiều khoản ưu đãi đặc biệt hơn thông qua việc mua cổ phần của các công ty khác
và phát triển thành các chaebol. Năm 1976, 10 chaebol lớn nhất chiếm 19,8% GNP nhưng đến năm
1984 tỉ trọng này đã lên tới 67,4%. Một khi tổ chức theo kiểu chaebol lớn mạnh các chiến lược phát
triển định hướng xuất khẩu ngày càng trở nên phụ thuộc nhiều vào các tập đoàn này.
1.2.2.3. Những yếu tố chính trị, gia đình ảnh hưởng đến việc thành lập và phát triển mô hình
công ty mẹ - công ty con
- Yếu tố chính trị: Từ tình hình phát triển mô hình công ty mẹ - con ở một số nước trên thế giới
chúng ta có thể thấy rõ yếu tố chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến xu thế phát triển các tập đoàn. Định
hướng của chính phủ thông qua các chính sách công nghiệp hinh sách công nghệ chính sách tài chính -
tiền tệ đã có tác dụng thúc đảy hoặc cản trở sự phát triển của các tập đoàn. Định hướng xuất khẩu dựa
vào các công ty lớn các chính sách nhằm kiểm soát thị trường vốn của chính phủ Hàn Quốc và Nhật
Bản đã tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể thâu tóm được nhiều công ty sản xuất, thương mại, tạo
13
13
nên sự ràng buộc của các công ty này đối với ngân hàng biến chúng thành các công ty thành viên của
mình và hình thành nên các tập đoàn lớn.
- Yếu tố gia đình: có ảnh hưởng rất đa dạng tới xu thế phát triển mô hình công ty mẹ - con.
Trong một xã hội mà quan hệ gia đình không được đè cao như Mỹ thì yếu tố gia đình không có ảnh
hưởng lớn đến việc phát triển các tập đoàn. Nhưng yếu tố này đặc biệt có ảnh hưởng mạnh ở Nhật bản,
Hàn Quốc đặc biệt trong các ngành chế tạo. Ở Đức 60 trong số 150 hãng lớn nhất thuộc sở hữu của các
thành viên trong cùng một gia đình. Ở Italia doanh nghiệp gia đình hoạt động như mô hình quốc gia.
Các công ty lớn của Italia thường do một cá nhân thống trị. Ở Nhật Bản gia đình rất được đề cao. Vì
vậy phần lớn các tập đoàn lớn của Nhật là thuộc về quản lí của một gia đình.
1.2.3. Nhu cầu và điều kiện thành lập mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam
1.2.3.1. Nhu cầu cần thiết thành lập Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con ở nước
ta
Trước hết, quá trình xây dựng và phát triển ở nước ta hơn 30 năm qua tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu đã được tạo lập. Đặc biệt
từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế quốc dân đã có nhưng chuyển biến tích cực rõ rệt và đặc
biệt trong cơ cấu kinh tế một số ngành đã đạt được trình độ tích tụ tập trung hoá sản xuất khá cao như
điện lực, bưu chính viễn thông, dầu khí, cao su… Điều đáng chú ý là những ngành này đều chiếm vị trí
trọng yếu trong cơ cấu kinh tế có triển vọng phát triển thuận lợi và được ưu tyên phát triển. Tuy nhiên
các Tổng công ty trong các ngành nói trên lại đang ở tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng . Để thực hiện
chiến lược phát triển đến năm 2000-2010, tổng công ty bưu chính cần khoảng 28695 tỉ đồng, tổng công
ty hàng không tận dụng có nhu cầu đầu tư trong 10 năm là 5690 triệu đô la. Trong điều kiện ấy nếu để
từng doanh nghiệp độc lập sẽ không thể thực hiện được yêu cầu tăng trưởng và phát triển, sẽ làm lỡ
những cơ hội kinh doanh và khả năng hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế giới. Tổng công ty theo
mô hình công ty mẹ - con sẽ là giải pháp hữu hiệu.
Thứ hai qui mô mỗi doanh nghiệp độc lập phân tán manh mún, nhỏ bé, trình độ trang bị công
nghệ thấp kém, khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế rất hạn chế. Trên 2/3 tổng số
doanh nghiệp nhà nước có số lao động dưới 200 người, chỉ có khoảng 4% có số lao động trên 1000
người. Gần 1/2 số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ. Với trình độ trang bị kĩ thuật lạc hậu không đồng bộ
và đang xuống cấp nghiêm trọng trong khi đó các doanh nghiệp đều ở tình trạng thiếu vốn thì hậu quả
tất yếu xảy ra là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế rất
yếu kém.
Về nguyên tắc trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường
liên kết và cạnh tranh với nhau song trong thực tế các quan hệ liên kết kinh tế tuy có được thiết lập và
14
14
trong một số trường hợp đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhưng nhìn chung tình
trạng cạnh tranh có xu hướng lấn át các quan hệ liên kết kinh tế. Để đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá thì việc mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế dưới những hình thức khác nhau nhằm tăng cường
sức mạnh chung củ cả hệ thống trong đó việc thành lập tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty
con là một yêu cầu cấp thiết.
Thứ ba việc thí điểm thành lập các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ-công ty con là một
trong các biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước về kinh tế và là một trong những nội
dung của cải cách doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện cơ chế quản lí mới .Hiện nay vẫn tồn tại tình
trạng phân tán trong quản lí các doanh nghiệp nhà nước. Trong số các doanh nghiệp nhà nước mới
đăng kí thành lập lai có tơi 4573 doanh nghiệp do các địa phương quản lí và 1971 doanh nghiệp do các
bộ và cơ quan trung ương quản lí. Sự phân tán và chồng chéo đó không thể là điều kiện tốt để nâng cao
hiệu lực quản lí nhà nước về kinh tế cũng không thể bảo đảm phát huy hiệu quả sức mạnh của toàn bộ
nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đang trong qua trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước thì yêu cầu phân định rõ chức năng quản lí của nhà nước về
kinh tế và chức năng sản xuất kinh doanh đã được đặt ra nhưng chưa thực hiện tốt. Có thể coi việc thí
điểm thành lập tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con là một trong những công việc của
quá trình này.
Thứ tư thành lập tổng công ty theo mô hình công ty mẹ-công ty con ở nước ta còn là một trong
những yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu quả trong việc hợp tác kinh tế với nước ngoài. Quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta gắn liền với quá tình xây dựng
nền kinh tế mở hội nhập bình đẳng và có hiệu quả vào các quan hệ kinh tế quốc tế trong khu vực và
trên thế giới. Việc thu hút đầu tư trực tyếp của nước ngoài nhằm mục đích tăng thêm vốn tranh thủ
công nghệ tyên tyến thâm nhập vào thi trường quốc tế. Từng doanh nghiệp của ta với nguồn lực hạn
chế sẽ gặp những khó khăn và thua thiệt trong hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Thông thường tỉ lệ
góp vốn của Việt nam chỉ khoảng 25-30%. Việc mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế giữa các doanh
nghiệp trong nước, đưa chúng vào một tổ chức kinh doanh thích hợp chính là giải pháp tăng góp vốn
của bên việt nam. Mặt khác việc đưa doanh nghiệp vào tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công
ty con còn góp phần tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Thực tế là nhiều
doanh nghiệp biệt lập với qui mô nhỏ bé trình độ trang bị kĩ thuật thấp kém không đủ sức cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam.
Tóm lại từ những vấn đè cụ thể của nền kinh tế nước ta và từ xu hướng phát triển của nhiều
nước trên thế giới có thể khẳng định rằng việc thành lập các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ
-công ty con ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là có nhu cầu thực sự và là cần thiết khách quan.
15
15
1.2.3.2. Một số điều kiện cơ bản để thành lập Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty
con ở Việt Nam
Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con là một loại hình tổ chức kinh doanh hoàn
toàn mới mẻ ở nước ta. Để cho tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con ra đời và bảo đảm
hiệu quả hoạt động của nó cần có những điều kiện cơ bản và khả năng thực tế thoả mãn những điều
kiện ấy.
Sự phát triển và trình độ phát triển của quan hệ sản xuất là yếu tố đóng vai trò quyết định.
Chúng ta sẽ xem xét những điều kiện của quan hệ sản xuất ở nước ta đã là tất yếu khách quan cho việc
hình thành và phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con hay chưa?
Trước hết xem xét sự phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong
nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước. Sự phát triển của các quan hệ liên kết kinh tế
được coi là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành mô hình công ty mẹ - công ty con,
trong đó các đơn vị thành viên gắn bó chặt chẽ với nhau về lợi ích và có trách nhiệm với nhau. Ở nước
ta trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lí mới, các doanh nghiệp thuộc cấc thành phần kinh tế phải
đối mặt với tình trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường .Bên cạnh xu hướng tiêu cực là các
doanh nghiệp muốn độc lập tự chủ theo kiểu tách riêng thì hiện nay đã và đang diễn ra mạnh mẽ xu
hướng tích cực là quá trình liên kết nhau chặt chẽ để tồn tại .Những quan hệ liên kết tích cực ấy phát
triển khá đa dạng và mang lại những kết quả tích cực. Đó là các quan hệ liên kết giữa sản xuất nguyên
liệu và chế biến nguyên liệu trong ngành chế biến mía đường và trong công nghiệp chế biến nông thuỷ
sản, quan hệ liên kết kinh tế giữa hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp với hoạt động nghiên cứu
khoa học của các cơ quan nghiên cứu. Các quan hệ liên kết này không chỉ diễn ra trong các doanh
nghiệp cùng ngành mà còn được mở rộng lôi kéo nhiều chủ thể ở các lĩnh vực hoạt động khác .Kết quả
dẫn đến việc thành lập các tổ chức mới các liên hiệp xí nghiệp, các hiệp hội… Trong hệ thống tổ chức
các ngành kinh tế quốc dân chúng ta có đủ cơ sở để cho rằng các loại hình tổ chức trên là điều kiện
tyền đề về mặt tổ chức để tyến tới thành lập mô hình tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty
con. Sự phát triển của các quan hệ liên kết kinh tế với các tổ chức khác nhau dung nạp nó tạo nên điều
kiện tyền đề thành lập tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Nhà nước với tư cách là
chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước có quyền sử dụng các biện pháp hành chính tổ chức thích hợp
để cho ra đời loại hình tổ chức này.
Mặt khác sự phát triển của thị trường và các quan hệ kinh tế trên thị trường, sự phát triển của
các quan hệ cạnh tranh và liên kết kinh tế giữa các chủ thể, sự khẳng định các quan hệ sở hữu tồn tại
hợp pháp, sự phát triển các quan hệ phân công. Hợp tác cũng là tyền đề thuận lợi cho việc hình thành
16
16
mô hình công ty mẹ - công ty con. Quá trình xây dựng và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước theo định hướng XHCN đã và đang được thực hiện bằng một loạt việc làm cụ thể trong điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí. Xác định rõ vai trò của nhà nước về kinh tế, mở rộng
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm. Nền kinh tế quốc dân có
sự tăng trưởng với nhịp độ cao, liên tục trong nhiều ngành kinh tế. Những ngành, lĩnh vực hoạt động và
vùng lãnh thổ trọng điểm xác định ngày càng rõ ràng hơn và được ưu tyên phát triển mạnh, tạo sức
mạnh lôi kéo các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ khác phát triển. Các quan hệ quốc tế ngày càng
được mở rộng và bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan. Đó là kết quả của việc xây dựng nền
kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế.
Cuối cùng chúng ta xem xét đến trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất kinh doanh. Mô hình
công ty mẹ - công ty con ra đời và phát triển trên cơ sở trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất ở mức
độ nhất định. Trình độ ấy phải vừa được xem xét trên góc độ toàn ngành vừa trên góc độ từng doanh
nghiệp riêng rẽ. Có trường hợp trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất của các ngành và các doanh
nghiệp trong ngành đều cao như tổng công ty dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không .Song cũng có
trường hợp trình độ tích tụ và tập trung hoá của ngành cao nhưng của các doanh nghiệp lại tháp kém
như công nghiệp cơ khí, sành sứ, trồng cây lương thực… Để thành lập tổng công ty theo mô hình công
ty mẹ - công ty con thì vấn đề lựa chọn ngành bảo đảm đủ điều kiện về tích tụ và tập trung hoá sản xuất
rất quan trọng. Ở nước ta các ngành có trình độ tích tụ và tập trung cao đều là những ngành giữ vị trí
quan trọng trong nền kinh tế bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường và có triển vọng phát triển
tốt như các ngành điện, xi măng, hàng không, bưu chính. Việc thành lập các tổng công ty theo mô hình
công ty mẹ - công ty con ở đây vừa có tác dụng thúc đẩy nhanh hiệu quả hơn quá trình tích tụ và tập
trung hoá vừa có được môi trường hoạt động thuận lợi và khả năng thực tế để đạt những mục tyêu đặt
ra cho việc thành lập chúng.
Tóm lại việc thành lập và tổ chức hoạt động của các Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ
-công ty con ở nước ta không phải chỉ là có nhu cầu, là cần thiết khách quan, phù hợp với khuynh
hướng chung về phát triển các loại hình kinh doanh trong cơ chế thị trường mà còn có những điều kiện
cơ bản, cần thiết. Dĩ nhiên hiện nay chúng ta chưa có đầy đủ và hoàn chỉnh các điều kiện cần có.
Nhưng sự khiếm khuyết ấy sẽ được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình hoạt động của tổng công ty
theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Từ đó có thể khẳng định việc thành lập và tổ chức hoạt động
loại hình này ở nước ta là tất yếu khách quan.
1.3. Kinh nghiệm thế giới
1.3.1. Con đường hình thành và bước đi.
17
17
Hình thành tập đoàn kinh doanh là kết quả tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
vốn kinh doanh. Kinh nghiệm cho thấy nguồn vốn tự tích luỹ đóng vai trò cơ bản trong việc hình thành
các tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên quá trình tích tụ tự đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,
hoặc xây dựng các nhà máy mới chỉ là một bộ phận trong toàn bộ quá trình hình thành tập đoàn kinh
doanh, đIều quan trọng là làm thế nào để có thể đẩy nhanh quá trình thành lập hay quá trình tập trung
sản xuất và tập trung vốn này. Chính vì vậy, để đi đến thành quả là thành lập công ty mẹ - công ty con
thì phổ biến nhất hiện nay có hai con đường, đó là:
Con đường thôn tính theo kiểu cá lớn nuốt cá bé thông qua việc mua lại các công ty nhỏ yếu
hơn, biến chúng thành một bộ phận không thể tách rời của công ty mẹ hay theo con đường tự nguyện
sát nhập vơí nhau để hình thành các công ty lớn hơn chống lại nguy cơ bị thôn tính và tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường. Đây là con đường phổ biến được các nước tư bản phát triển áp dụng.
Trong khi đó ở các nước công nghiệp hoá đi sau, các tập đoàn kinh doanh chủ yếu hình thành
và phát triển bằng tích tụ và liên doanh nhằm tăng nhanh vốn, khả năng sản xuất, chuyển giao công
nghệ nước ngoài và khả năng cạnh tranh nhằm chống lại nguy cơ bị các công ty nước ngoài thôn tính.
Và việc mỗi tập đoàn chọn cho mình một hướng đi đúng vẫ chưa phải là yếu tố quyết định cuối
cùng đế sự thành công hay thất bại mà điều này còn phụ thuộc rất lớn vào việc các tập đoàn sẽ lựa chọn
điểm xuất phát như thế nào, đây chính là một khâu đột phá trong quá trình hình thành tập đoàn kinh
doanh của các nước trên thế giới. Do có sự khác biệt rất lớn về các yếu tố lịch sử, địa lý, điều kiện kinh
tế, văn hoá xã hội và chính sách phát triển kinh tế, cũng như xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự
phát triển mạnh mẽ của các hoạt động liên doanh, liên kết đấ và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi,
khả năng lựa chọn khác nhau về khâu đột phá để hình thành tập đoàn kinh doanh. Hiện nay trên thế
giới đang tồn tại hai xu thế khác nhau:
Đối với Mỹ và một số nước Châu âu, các tập đoàn kinh doanh chủ yếu khởi sự từ các hoạt động
sản xuất. Thông qua các kết quả của hoạt đọng sản xuất mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực khác như
thương mại, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng v.v Đặc điểm của các tập đoàn đi từ sản xuất là ngay từ đàu
chúng đã phải chú trọng đầu tư cho nghiên cứu , ứng dụng khoa học công nghệ mới.
Còn với một số nước như Nhật Bản và Nics thì lại khởi đầu từ lĩnh vực thương mại hay ngoại
thương. Cùng với sự phát triển của thị trường, những đòi hỏi phát triển nền kinh tế quốc dân, những
kinh nghiệm quản lý và nguồn vốn tích luỹ được từ các hoạt động kinh doanh, những công ty này đã
bành trướng sang các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác. Với các nước này, điều mà
họ phải chú ý tới không phải là các nghiên cứu ứng dụng khoa học mà là các kiến thức về hoat động
mở rộng thị trường, xây dựng mạng lưới tiêu thụ quốc gia và quốc tế.
1.3.2. Một số mô hình công ty mẹ - công ty con trên thế giới.
18
18
Sau đây là một số mô hình tập đoàn công ty thành công trên thế giới.
* Tập đoàn General Motor (Mỹ).
General Motor thành lập năm 1908, có nhiệm vụ ban đầu là sản xuất ôtô. Năm 1902 General
Motor đã trở thành một công ty lớn gồm năm công ty sản xuất ôtô con và một công ty sản xuất xe tải.
Ngày nay General Motor là một tập đoàn kinh tế đa quốc gia, đa ngành lớn nhất nước Mỹ (tổng doanh
thu năm 1992 là 132 tỷ USD), trong đó sản xuất ôtô là ngành chính (chiếm 80- 90% tổng doanh thu)
với tổg số lao động là 876 nghìn người. General Motor có một hệ thống chi nhánh gồm 136 công ty
nằm ở khắp các ước trên thế giới. Trụ sở ban quản trị đIũu hành chính đóng tại Detroit. Như vậy
General Motor đã chọn con đường thứ nhất, khởi sự từ hoạt động sản xuất ôtô rồi bành trướng sang các
lĩnh vực khác, ví dụ như việc mua lại hãng hàng không Hughes năm 1985 và công ty xử lý máy tính
hàng đầu nước Mỹ năm 1986. Tuy nhiên tích tụ và tập trung sản xuất, vốn vẫn là con đường cơ bản
trong việc hình thành và phát triển của tập đoàn General Motor.
Trước năm 1920 công ty General Motor thực hiện quản lý tập trung toàn bộ sáu công ty, kết quả
là không kiểm soát được chi phí và hoạt động trở nên không có hiệu quả. Từ năm 1926 công ty thực
hiện phi tập trung hoá quản lý (các công ty trở thành những công ty độc lập về mặt pháp lý nhưng tập
đoàn thực hiện quản lý tập trung toàn bộ hoạt động kế hoạch hoá tài chính và đầu tư của tập đoàn), nhờ
đó doanh thu và lợi nhuận của General Motor không ngừng tăng lên. Như vậy General Motor đã rất
thành công trong việc áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với đòi hỏi của thực tế, một mặt
giữ ngành chuyên môn hoá truyền thống, mặt khác đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong thành công lớn của General Motor phải kể đến vai trò của chính phủ. Chính phủ Mỹ đã
nhận thức được vai trò to lớn của các công ty khổng lồ và tạo nên sự gắn bó hết sức chặt chẽ giữa chính
phủ và các nhà kinh doanh lớn. Ví như thông qua hiệp định “tự nguyện bắt buộc” với chính phủ Nhật
Bản để hạn chế sự thâm nhập của các tập đoần công ty sản xuất ôtô của Nhật vào Mỹ.
- Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc.
Đây là một điển hình về sự thành công trong sự lựa chọn con đường thứ hai với xuất phát điểm
là lĩnh vực thương mại. Tập đoàn Samsung thành lập năm 1938 với tổng số vốn ban đầu là 2000 USD,
40 lao động. Nhiệm vụ chính là mua bán nông sản. Trải qua quá tình phát triển, Tập đoàn đã luôn mỏ
rộng sản xuất kinh doanh sang các mặt hàng mới nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường như điện
tử, bảo hiểm thân thể, chế biến đường v.v Đến nay tập đoàn Samsung đã bao gồm 32 công ty liên
kết lại với một mạng lưới chi nhánh rộng khắp gồm 180 văn phòng ở 90 thành phố thuộc 54 nước trên
thế giới.
Với chiến lược sản xuất phản ánh và phục vụ quá trình công nghiệp hoá đất nước nên Tập đoàn
Samsung đã được sự khuyến khích và hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ. Bên cạnh đó phương thức quản
19
19
lý tyên tyến đã giúp Samsung tận dụng được những cơ hội trong và ngoài nước để vươn lên vị trí thứ
20 trong số 50 tập đoàn kinh doanh lớn nhất thế giới như hiện nay.
- Tập đoàn Mitsubishi của Nhật Bản.
Mitsubishi thành lập năm1870 với lĩnh vực kinh doanh là vận tải biển. Đến nay hoạt động kinh
doanh đã trải rộng ra nhiều lĩnh vực như sản xuất thép, cơ khí đóng tàu, điện, hoá chất, ngân hàng,
ngoại thương v.v…, với một hệ thống chi nhánh trải khắp thế giới. Sự thành công đó là kết quả của sự
kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố: tính dân tộc đặc thù, khả năng nắm bắt xu thế hiện đại trên thế giới và
có được sự hướng dẫn tích cực của nhà nước. Chính phủ Nhật có vai trò rất to lớn đối với sự hình thành
và phát triển của Mitsubishi, nó không chỉ đưa Mitsubishi lớn ngang tầm các công ty độc quyền quốc
tế, mà còn hạn chế được sự thâm nhập của các tập doàn tư bản nước ngoài vào Nhật. Trong Mitsubishi
các công ty con không phải độc lập hoàn toàn mà hoạt động như các công ty vệ tynh giữ quyền tự do ở
mức đáng kể. Có một nét đặc biệt trong các tập đoàn kinh doanh của Nhật nói chung hay Mitsubishi
nói riêng đó là sự tách rời giữa quyền sỡ hữu và quyền quản lý, trong rất nhiều trường hợp người quản
lý tập đoàn khôg phải thành viên của gia đình. Yếu tố quyết định là lựa chọn đội ngũ quản lý có năng
lực thực sự.
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm.
Việc phân tích một số tập đoàn kinh tế trên đã đưa ra rất nhiều bài học kinh nghiệm cần thiết
cho Việt Nam trong giai đoạn tiến tới hình thành và phát triển mô hình tập đoàn kinh tế mà phổ biến ở
đây là mô hình công ty mẹ - công ty con.
Thứ nhất, quá trình tích tụ và tập trung vốn sản xuất kinh doanh có thể diễn ra theo những
phương thức khác nhau, nhưng cái bản chất, cái cốt lõi mà các tập đoàn kinh doanh phải nhận thức
được đó là phải xuất phát từ nguồn vốn tự tích luỹ từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân các
công ty. Điều đó tạo cho các công ty một khả năng độc lập cao và cũng để chứng minh rằng chỉ có
những công ty khi đã có tyềm lực thật sự mạnh thì mới có thể đi đến thành lập tập đoàn công ty.
Thứ hai, về mô hình tổ chức. Nhìn chung các tập đoàn kinh doanh là một hình thức tổ chức kinh
tế lỏng vì phần lớn chúng không có tư cách pháp nhân. Các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc
lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên chủ yếu dựa trên mối quan hệ liên kết về lợi ích
kinh tế. Đây là mối quan hệ ràng buộc phụ thuộc chặt chẽ với nhau và ở một mức độ phụ thuộc vào
công ty mẹ, nhằm thực hiện mục tiêu chung của cả tập đoàn. Do vậy, tập đoàn chỉ tồn tại và phát triển
vững mạnh khi xây dựng được cơ chế hoạt động dựa trên sự thống nhất về mặt lợi ích kinh tế của từng
thành viên với lợi ích chung của cả tập đoàn và thực hiện chủ yếu bằng hợp đồng kinh tế. Sự thành
công của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã cho thấy kết quả tốt của phương thức quản lý phi tập
chung hoá. Kiểu quản lý này vừa phát huy được tính năng động tự chủ của các công ty thành viên, vừa
20
20
tạo sự thống nhất chung trong tập đoàn. Và để tăng hiệu quả hoạt động của các thành viên công ty hay
của cả tập đoàn thì một chiến lược chung tổng quát có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì nó không chỉ
tăng cường sức mạnh chung theo định hướng mà còn tạo được sự uyển chuyển, năng động, linh hoạt
của các công ty thành viên trong việc lựa chọn phương hướng mục tyêu phát triển của riêng mình.
Ngày nay, theo cơ chế thị trường thì các công ty thành viên được hoàn toàn tự do trong việc định giá cả
nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Điều đó có thể dẫn đến cạnh tranh trong nội bộ các thành viên, do đó
công ty mẹ cần phải giữ vai trò trong việc phân công phát triển chuyên môn hoá, điều hoà nguồn vốn
giữa các thành viên nhằm tạo điều kiện thuận lợi về tài chính cho các thành viên phát huy được thế
mạnh chuyên môn hoá của mình. Như vậy mối liên kết kinh tế giữa các công ty thành viên sẽ bền vững
hơn.
Thứ ba, về hình thức sở hữu của tập đoàn. Ta thấy hầu hết các tập đoàn tư bản lớn hiện nay có
nguồn gốc từ những công ty sở hữu gia đình. Từ sở hữu của các chủ tư bản cá biệt chúng chuyển dần
thành sở hữu của tập thể các nhà tư bản độc quyền. Nói chung chúng mang sắc thái của sở hữu tư nhân
nhưng lại gắn bó chặt chẽ với chính phủ các nước. Hình thức hỗn hợp dưới dạng công ty cổ phần là
một hình thức được ưu chuộng vì nó đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất hiện nay, đồng thời nó cũng
phản ánh được lợi ích của các bên tham gia trong cac tập đoàn kinh đoanh đó. Đây là một gợi mở rất
cần thiết cho Việt Nam, khi mà sự gắn kết của chính phủ đối với các công ty tư nhân là rất lớn thì hình
thức dưới dạng công ty cổ phần là hợp lý hơn cả.
Thứ tư, về vai trò của nhà nước. Nhà nước có vai trò cực kỳ to lớn với sự tồn tại và phát triển
của tập đoàn kinh doanh, thể hiện qua việc tạo dựng, duy trì và thúc đẩy môi trường kinh tế xã hội cần
thiết cho các tập đoàn hoạt động. Vai trò đó được thể hiện trong các nội dung như sau:
+ Duy trì trật tự và ổn định xã hội.
+ Xây dựng mô trường pháp luật đảm bảo cạnh tranh bình đẵng, khuyến khích các tập đoàn
kinh doanh phát triển song vẫn cũng đảm bảo môi trường bình đẵng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hoạt động tốt, tạo tâm lý yên tâm làm ăn trong dân chúng.
+ Xây dựng các công trình công cộng.
+ Định hướng đúng xu thế phát triển làm tyên đề cho các quyết định của các tập đoàn và các tổ
chức kinh tế khác.
+ Sự điều hành của chính phủ luôn nhằm hỗ trợ giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho giới kinh
doanh hoạt động có hiệu quả: Theo dõi tình hình cạnh tranh và đầu tư của tư bản nước ngoài, và có các
chính sách bảo vệ sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh với nước ngoài; Thực hiện chính
sách kinh tế đối thoại mềm dẻo linh hoạt vừa phát huy được lợi thế hợp tác của quốc tế vừa tránh được
cạnh tranh không cân sức với các tập đoàn kinh doanh quá lớn.
21
21
+ Chính phủ sẵn sàng tạo ra điều kiện thuận lợi cho những tập đoàn kinh tế tỏ ra hợp tác với
chính phủ và ngược lại có những biện pháp trừng phạt bất cứ tập đoàn nào nếu tỏ ra có thái độ chống
đối.
Tuy nhiên tác động của chính phủ đối với sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh ở các nước
khác nhau có mức độ không giống nhau. Chẳng hạn chính phủ Mỹ chỉ tác đông đến sự phát triển của
các tập đoàn kinh doanh như một chất xúc tác, trong khi đó vai trò của chính phủ Nhật Bản và NICs
thì lớn hơn nhiều. Còn đối với nước ta, trong một định chế xã hội chủ nghĩa thì sự phát triển của tập
đoàn kinh doanh bị ảnh hưởng rất nhiều của nhà nước. Mục tiêu hoạt động của các tập đoàn kinh doanh
gắn bó một cách chặt chẽ với mục tyêu phát triển kinh tế quốc dân. Do đó, trong một chừng mực nhất
định thì việc hình thành các tập đoàn kinh doanh, mà ở đây chủ yếu là công ty mẹ - công ty con
(concern) có những nét khác biệt so với các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới.
22
22
Phần II: Sự hình thành và tổ chức mô hình
công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam
2.1. Hình thức thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt Nam
2.1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước
Trong bối cảnh và những điều kiện khách quan, Đảng và Nhà nước ta đã xác định chủ trương
thí điểm mô hình công ty mẹ - công ty con dựa trên các ưu điểm nổi trội:
Công ty mẹ có quyền thay đổi cơ cấu tài sản để phát triển kinh doanh, chuyển nhượng, cho
thuê, cầm cố, thế chấp toàn bộ tài sản (hiện tại, đối với các tài sản quan trọng, các quyền này chỉ được
thực hiện khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép). Trong quan hệ với công ty con, công ty mẹ sẽ
nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối, vốn góp chi phối ở công ty con, có
quyền chi phối đối với các công ty con. Còn công ty con chỉ là doanh nghiệp do công ty mẹ sở hữu
toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ và bị công ty mẹ chi phối. Ưu điểm này đã khắc phục được hạn chế
của mô hình trước: quan hệ giữa tổng công ty và doanh nghiệp thành viên thiếu tính kết dính về mặt tài
chính, chưa phân biệt rõ tài sản, vốn, quyền lợi, nghĩa vụ của hai pháp nhân này và tổng công ty nhà
nước chỉ có quyền quản lý và sử dụng tài sản.
Theo mô hình trước, thì Nhà nước có thể điều chuyển vốn và tài sản của tổng công ty hoặc của
doanh nghiệp nhà nước nếu thấy cần thiết.Điều này đã tác động không nhỏ đến hoạt động của doanh
nghiệp. Khắc phục hạn chế này, trong mô hình công ty mẹ - công ty con, Nhà nước không điều chuyển
vốn và tài sản của Nhà nước đang nằm trong các công ty mẹ theo phương thức không thanh toán, trừ
trường hợp quyết định tổ chức lại công ty mẹ nhằm bảo đảm ổn định về vốn và tài sản cho một số
doanh nghiệp kinh doanh bình thường.
23
23
Trong mô hình trước, tổng công ty nhà nước không có quyền chuyển nhượng, thuê, mua toàn
bộ hoặc một phần công ty thành viên của mình. Nhưng mô hình công ty mẹ - công ty con cho phép
công ty mẹ chuyển được nhượng toàn bộ hoặc một phần công ty con; quyết định thuê, mua một phần
hoặc toàn bộ một đơn vị trực thuộc mình.
Tổng công ty nhà nước phải nộp khoản thuế thu nhập doanh nghiệp cho khoản thu nhập thu
được từ phần góp vốn vào các công ty thành viên và các công ty khác. Nhưng công ty mẹ sẽ không
phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận thu được từ phần góp vốn vào các công ty
con và các công ty khác, nếu các công ty này đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho
các bên góp vốn.
Công ty mẹ có trách nhiệm đầu tư 100% vốn điều lệ cho các công ty con là doanh nghiệp nhà
nước, thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn này, quản lý và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực do mình đầu tư vào các công ty con là doanh nghiệp nhà nước; trong khi đó, tổng công ty
nhà nước không có trách nhiệm đầu tư 100% vốn điều lệ cho doanh nghiệp thành viên, không thực hiện
quyền chủ sở hữu đối với phần vốn này.
So với quan hệ giữa các tổng công ty nhà nước với các doanh nghiệp thành viên, quan hệ giữa
công ty mẹ - công ty con chặt chẽ và khăng khít hơn. Mặt khác, mối quan hệ này đã chuyển từ liên kết
hành chính, giao vốn sang liên kết tài chính, đầu tư vốn. Theo đó, công ty mẹ chi phối các công ty con
với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hình thức pháp lý và mức vốn góp ở công ty con.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cũng nêu rõ mục tiêu của việc thí điểm này là: "Để tạo điều
kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xóa
bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phận biệt doanh nghiệp Trung ương,
doanh nghiệp địa phương và tăng cường vai trò quản lý nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế”.
2.1.2. Quá trình thí điểm thành lập các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
* Quy trình thí điểm:
Quán triệt các chủ trương của Đảng và Chính phủ về việc thí điểm thành lập các tổng công ty
theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong thời gian qua các cơ quan có trách nhiệm đã triển khai
một loạt các công việc nằm thực hiện nhiệm vụ này.
Các đơn vị được lựa chọn làm thí điểm là: "Một số Tổng công ty, công ty lớn có mối liên hệ
theo ngành và vùng lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp do Trung ương hay do địa phương quản
lý, và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm những yêu cầu cần thiết cho thị trường
trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh doanh ra ngoài nước”.
24
24
Các cơ quan chủ quản lập danh sách đơn vị đề nghị chọn làm thí điẻm gửi về ủy ban kế hoạch
nhà nước và Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp nhà nước của chính phủ để tổng hợp trình thủ tướng
chính phủ. Kèm theo danh sách là bản giải trình về sự cần thiết, căn cứ và nghĩa của việc lựa chọn đơn
vị thí điểm.
rên cơ sở giải trình của các Bộ, đồng thời căn cứ đề nghị của ủy ban kế hoạch nhà nước, thủ
tướng chính phủ sẽ quyết định danh sách các đơn vị được tyến hành thí điểm.
Các cơ quan có đơn vị thí điểm lập Ban trù bị thành lập Tổng công ty theo hướng công ty mẹ-
công ty con. Ban trù bị có ít nhất 50% thành viên dự kiến tham gia Hội đồng quản trị sẽ được thành
lập. Trách nhiệm chủ yếu của Ban trù bị là chuẩn bị hồ sơ trình thủ tướng chính phủ xem xét và quyết
định tổ chức thí điểm thành lập Tổng công ty theo hướng công ty mẹ - công ty con.
Các cơ quan có trách nhiệm (ủy ban kế hoạch nhà nước, Ban tổ chức chính phủ, Bộ tài chính,
Ngân hàng nhà nước, Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, Bộ
quản lý ngành ) tiến hành thẩm định hồ sơ và trình thủ tướng chính phủ phê duyệt phương án thí
điểm.
Thủ tướng chính phủ phê duyệt và ra quyết định thành lập.
Hồ sơ đề nghị tổ chức thí điểm Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con gồm:
+ Luận chứng kinh tế - kỹ thuật và phương án hoạt động của Tổng công ty, trong đó cần làm rõ:
sự cần thiết và khả năng thành lập Tổng công ty, tình hình hoạt động hiện tại của các đơn vị dự kiến
tham gia, dự kiến hệ thống tổ chức, phương hướng hoạt động và triển vọng phát triển, khó khăn thuận
lợi và kiến nghị giải pháp
+ Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. Điều lệ ấy phải bao hàm những nội dung chủ
yếu sau đây: Nguyên tắc tổ chức, Tổ chức bộ máy quản lý, Nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy quản lý
(của bộ máy tổng công ty, của các đơn vị thành viên, của Hội đồng quản lý: của Tổng giám đốc, của
Ban kiểm soát ). Hoạt động tài chính và chế độ hạch toán kinh tế
+ Bản tóm tắt tình hình hoạt động của tổng công ty (hiện tại) và các đơn vị thành viên.
+ Danh sách (đề nghị) cán bộ lãnh đạo chủ yếu của Tổng công ty (Hội đồng quản trị và Tổng
giám đốc)
Cụ thể tóm tắt quy trình thí điểm thành lập các Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty
con trong sơ đồ sau đây:
25
Đề nghị đơn vị
thí điểm
Bộ chuyên ngành
Lập ban trù bị chuẩn
bị hồ sơ
Bộ chuyên ngành các
đơn vị thành viên
Quyết định
thí điểm
Thủ tướng Chính phủ
Quyết định chọn đơn
vị thí điểm
Thủ tướng chính phủ
25