Sự phản xạ ánh sáng
Sự phảnxạ ánh sáng (và cácdạng kháccủa bức xạ điện từ) xảy ra khisóng
chạmphải một bề mặt hoặc một ranhgiới khác không hấp thụ năng lượngbức xạ
và làm bật sóng ra khỏi bề mặtđó.Thí dụ phảnxạ ánh sáng đơngiản nhất là bề
mặtcủa một hồ nước phẳnglặng, ở đó ánh sáng tới bị phản xạ theo kiểu có trậttự,
tạo ra ảnh rõràng củaquang cảnh xungquanh hồ. Ném một hòn đá xuống hồ (xem
hình 1), và nước bị nhiễuloạn hìnhthành sóng, làmphá vỡ sự phản xạ bởi nó làm
tán xạ cáctia sángphản xạ theo mọi hướng.
Một số lời giải thíchsớm nhất cho sự phản xạ ánhsáng xuấtphát từ nhà toán
học HyLạp cổ đại Euclid,ngườiđã dẫn ra một loạt thí nghiệmvào khoảng năm 300
trướcCôngnguyên, và cóvẻ đã có một sự hiểu biết tốt về cách ánhsáng bị phản xạ.
Tuy nhiên, phải mấthơn một thiên niênkỉ và 5 thế kỉ nữa thìnhà khoahọc người
ArabAlhazenmới đề rađược một định luật mô tả chính xác điều xảy ravới tia
sáng khinó chạmphải một bề mặt phẳng và rồibậttrở lại vàokhông gian.
Sóng ánh sángđến gọi là sóngtới, và sóng bật khỏibề mặt gọi làsóng phản
xạ.Ánh sáng trắng khả kiến có hướng đi đến bề mặt gươngở một góc (tới) bị phản
xạ trở lại vào không gian bởi mặtgương ở mộtgóc khác (góc phản xạ) bằngvới
góc tới,như biểudiễn trên hình2 cho hoạtđộngcủa chùm tia sáng phátra từ đèn
flash tác dụnglên bề mặt gương phẳng, nhẵn. Như vậy,góc tới bằng với góc phản
xạ đối với ánh sángkhả kiến cũng như mọi bước sóng khác thuộcphổ bức xạ điện
từ. Ý tưởng nàythường được gọi là định luật phản xạ.Điều quan trọng cầnlưu ý là
ánh sáng không tách thành cácmàu thànhphần của nódo nó khôngbị “bẻ cong”
hoặc bị khúc xạ, và mọi bước sóngđều bị phản xạ ở góc bằngnhau. Bề mặt phảnxạ
ánh sáng tốt nhất phải rất nhẵn,ví dụ như gương thủy tinhhoặc mặt kim loại láng
bóng, mặc dù tất cả mọi bề mặt đều phản xạ ánh sáng ở mức độ nào đó.
Do ánh sáng hành xử trong một số kiểu giống như sóngvà trong một số kiểu
khác lại giống như hạt,nên một vài lí thuyết phản xạ ánh sáng độc lậpnhauđã ra
đời. Theothuyết sóng, sóng ánhsáng trải ra từ nguồn phát theo mọi hướng, và va
chạmlên gương,bị phản xạ ở góc được xác địnhbởi góc màánhsáng đi tới. Quá
trìnhphản xạ làm đảongược sóngsau ratrước, đó là lí dotại sao người ta lại nhìn
thấyảnhlộn ngược. Hình dạng của sóngánh sáng phụ thuộc vào kích thướccủa
nguồnsángvà khoảng cách màánh sángtruyền đi để chạm tới gương.Mặt sóng
phátra từ một nguồn ở gầngương sẽ bị cong nhiều,cònmặt sóngphát ra từ một
nguồnở xa sẽ gần như là thẳng, nhân tố sẽ ảnh hưởng tới góc phản xạ.
Theo thuyếthạt,khác biệtvới ý tưởngsóng ở một vài chi tiết quantrọng, thì
ánh sáng đi đếngương dưới dạngmộtdòng hạtnhỏ xíu, gọi là photon,chúngbật
khỏi bề mặt gương khi chạm phải. Vì cáchạtquá nhỏ,chúng truyền đi rất gần nhau
(hầu như liên tục) và nảytrở lại từ những điểm khác nhau, nên trật tự của chúng bị
đảo ngược lại, tạo raảnhgương. Tuynhiên, dù cho ánhsáng là sóng hay là hạtthì
kết quả của sự phản xạ đều như nhau.Ánhsáng phảnxạ tạo ra ảnhgương.
Lượngánhsáng bị phản xạ bởimộtvật, và cách thứcnóbị phản xạ, phụ
thuộcnhiều vàomức độ nhẵn hoặc kếtcấu của bề mặt vật.Khi các khiếm khuyết
bề mặt nhỏ hơn bước sóngcủa ánh sáng tới (như trường hợp gương), thì hầu như
tất cả ánhsángbị phản xạ giốngnhau. Tuy nhiên, trong thế giới thực, đa số các vật
có bề mặt gồ ghề biểuhiện sự phản xạ khuếch tán, với ánh sáng tới bị phản xạ theo
mọihướng.Nhiều vật mà chúngta nhìn thấy ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng
ngày (con người,xehơi, nhà cửa, động vật, cây cối, )tự chúng khôngphát raánh
sáng khả kiến mà phản xạ ánhsáng MặtTrời tự nhiên và ánh sáng nhân tạođi tới
chúng. Thí dụ, một quả táo trông có màu đỏ chói vì nó có bề mặttương đối nhẵn
phản xạ ánh sáng đỏ và hấpthụ các bước sóngkhông phải màu đỏ (như màu xanh
lá cây, xanhdương,và vàng)của ánh sáng. Sự phản xạ ánh sáng có thể phân loại
thô thành hai loại phản xạ. Sự phản xạ phản chiếu được định nghĩa làánh sáng
phản xạ từ một bề mặt nhẵn ở mộc gócxácđịnh,còn sự phản xạ khuếch tán được
tạo ra bởinhữngbề mặt gồ ghề có xu hướngphản xạ ánhsáng theomọi hướng
(như minh họa trong hình3). Trong môi trường sống hàng ngày củachúng ta, sự
phản xạ khuếch tán xảy ra nhiều hơn so với phản xạ phản chiếu.
Để hình dung sự khác nhau giữa phản xạ phản chiếu vàphản xạ khuếch tán,
hãy xéthaibề mặt rấtkhác nhau,mộtcái gương nhẵn bóng và một bề mặthơi đỏ
gồ ghề. Cái gươngphản xạ mọi thành phần của ánh sáng trắng (như các bước sóng
đỏ, lục, lam)hầu như giống nhau,vàánhsáng phảnxạ phản chiếuđi theo lộ trình
có cùnggóc bình thường như ánh sáng tới.Tuynhiên, bề mặt màu đỏ gồ ghề thì
khôngphản xạ hết mọi bước sóng,donó hấp thụ hết đa phần thànhphần lụcvà
lam,và phản xạ ánh sáng đỏ. Ánh sáng khuếch tán phản xạ từ những bề mặt gồ ghề
cũng bị tán xạ ra theo mọi hướng.
Có lẽ thí dụ tốt nhất củasự phản xạ phản chiếu, màchúng ta bắt gặp trong
cuộc sống hàngngày, là ảnhgương tạo bởi một cáigương trongnhà mà ai cũngđã
từng nhiều lần đứng trước nósoi ngắm dungnhan mình. Bề mặt thủy tinhphản
chiếunhẵn bóng của gương tạo ra mộtảnhảo của người quansátdoánh sáng
phản xạ đi thẳng trở lại vàomắt. Ảnh này đượcgọi là ảo donó không thậtsự tồn
tại (khôngcó ánh sáng đượctạo ra) vàxuất hiện phía saumặt phẳng gương dogiả
định mà não ngườivốn dĩ gây ra. Cách thứcđơn giản nhất để thấy xuất hiện ảnh
này là hãy hình dung khinhìn sự phản xạ của mộtvật đặtnằm về một phía của
người quan sát,sao cho ánhsáng đi từ vật chạm tới gươngở một góc nàođó và bị
phản xạ ở một góc bằng như vậy tới mắt củangười quan sát. Khi mắt nhận được
các tia phảnxạ, não người đã giả địnhrằng ánhsáng đi tới mắt theo lộ trìnhđường
thẳngtrực tiếp. Lần ngược theocác tiasáng đivề phía gương,não thu đượcmột
ảnh nằm phíasau gương. Đặc điểmthú vị của sự phản xạ này là ảnh của vật được
quan sát thấyphía saumặt phẳng gương,nằm cách gươngmộtkhoảng bằng với
khoảng cách từ gương tới vật thật nằm ở phía trướcgương.
Loại phản xạ nhìn thấy trong gương phụ thuộc vào hình dạng củagương và,
trong một số trườnghợp, cònphụ thuộc vào khoảng cách từ vật tới gương.Các
gương không phải lúc nào cũngphẳngvà có thể tạo ra nhiềuhìnhthể đa dạng
mang lạinhững đặc trưngphản xạ lí thú và hữu ích. Các gương lõm, thườngthấy
trong những chiếc kínhthiên văn quang học cỡ lớn, đượcdùng để thu thậpánh
sáng yếuớt phát ra từ nhữngngôi sao rất xa xôi. Bề mặt cong của gương tập trung
các tia sáng song song đến từ khoảng cách lớn vào một điểm cho cường độ cao.
Thiết kế gương này cũng thường thấy ở gương cạohoặc gương trang điểm, nơi
ánh sáng phản xạ tạo ra ảnh phóngto của khuôn mặt. Phần bên trong của một cái
thìa sángbóng làví dụ phổ biến của bề mặtgương lõm, và cóthể được dùng để
chứng minhmột số tính chất của loại gương này. Nếuphần bên trong của cái thìa
được giữ ở gần mắt, sẽ nhìn thấy mộtảnhphóng to trực diện của mắt (trong
trường hợp này, mắtgần với tiêu điểmcủa gương hơn).Nếu cái thìa được mang ra
xa,sẽ nhìn thấy mộtảnhthu nhỏ lộnngược của toànbộ gương mặt. Ở đây,ảnhbị
lộn ngược donó hìnhthành saukhi các tia phảnxạ đi qua tiêu điểm của bề mặt
gương.
Một loại gươngcó bề mặt cong khác,gương lồi,thường dùng làm kính chiếu
hậu cho ô tô, xe máy, bề mặt gương uốn cong raphíangoài tạora tầm nhìn cảnh
tượng phía saunhỏ hơn, toàn cảnhhơn. Khi các tia sáng song song chạm tới bề
mặtgương lồi, sóng ánh sáng bị phản xạ ra ngoài saocho chúngphân kì. Khi não
lần theo dấu vết tiasáng, chúngcó vẻ đến từ phía sau gương, nơi chúngsẽ phân kì,
tạo ra ảnh thẳng đứng nhỏ hơn (ảnh thẳng đứng vì ảnhảo được hìnhthành trước
khi các tia sáng đi quatiêu điểm).Gương lồi cũng đượcsử dụng làmgương góc
nhìn rộngđặt ở cáchànhlang và nơi buôn bán vì mục đích bảo mậtvàan toàn.
Ứng dụng vuivẻ nhất của gương lồi là những chiếc gươngkì lạ tìmthấy ở cáchội
chợ, hội hè, và nhà cười.Nhữngchiếc gương này thườnglà kếthợp các bề mặt lồi
và lõm hỗn hợp, hoặc các bề mặt thay đổi độ congchút ít, để tạora sự phản xạ kì
quái,méo mó khingười ta nhìnvào hình của chính mình.
Những chiếcthìa cóthể dùng để môphỏnggương lồi và gương lõm,như
minh họa tronghình4 cho sự phản xạ của một người phụ nữ trẻ đứng bên cạnh
một hàng rào gỗ. Khi hìnhngườiphụ nữ vàhàng rào bị phản xạ từ bề mặt hìnhbát
bên ngoài (lồi) của cáithìa, thì ảnhlà thẳngđứng, nhưng bị méomó ở cạnh ngoài
do độ congcái thìa thayđổi. Trái lại, khilật ngược cái thìa (bề mặt hình bát bên
trong, haybề mặt lõm) để phản xạ quangcảnh thì ảnh của người phụ nữ và hàng
rào bị lộnngược.
hình ảnhphản xạ thu được từ hai loại gươnglồi và gươnglõm đượcbiểu
diễn tronghình 5. Gươnglõm có bề mặt phản xạ cong vàotrong, giốngnhư phần
bên trong của một hình cầu. Khi ánh sáng songsong với trụcchính, hoặctrục
quang,bị phản xạ bởi bề mặtgương lõm (trongtrường hợp này, ánhsáng đi từ
chân của con cú mèo), chúng hội tụ tạitiêu điểm(điểm màu đỏ) nằm phía trước
gương. Khoảng cách từ bề mặt phản xạ đến tiêu điểmđượcgọi là tiêu cự của
gương. Kích thước của ảnh phụ thuộcvào khoảngcách từ vật đến gương và vị trí
của nóđối với gương. Trongtrường hợp,con cú mèo đặt nằm ngoài tâm cầu và
ảnh phản xạ bị lộn ngược và nằmgiữa tâm cầu củagương vàtiêu điểmcủa nó.
Gương lồi cóbề mặt phản xạ cong raphía ngoài, giống như phầnphíangoài
của hình cầu.Tiasáng songsong với trụcchính bị phản xạ khỏi bề mặt theohướng
phân kìkhỏi tiêu điểm nằm phía saugương (hình 5). Ảnhhình thành với gươnglồi
luôn luôncùng chiều với vật và kích thướcnhỏ lại. Những ảnh này cũng được gọi
là ảnh ảo, vì chúng xuất hiện nơi các tiaphản xạ có vẻ phân kì từ tiêu điểmnằm
phía saugương.
Phương pháp cắt đá quý là một trong những ứng dụng quantrọng về mặt
thẩmmĩ và vuithích của nguyênlí phản xạ ánh sáng. Đặc biệt trongtrường hợp
kim cương, vẻ đẹp và giá trị kinhtế của từng viên đá nàychủ yếu đượcxácđịnh
bởi tương quanhình họcở các mặt ngoài của đá. Cácmặt được cắt vào viên kim
cương saocho đa phần ánhsáng rơi vào mặttrước củaviên đá đều phản xạ trở lại
phía người quansát (hình 6).Một phần ánh sáng bị phảnxạ trực tiếptừ những
mặtbên ngoài phía trên, còn một số đi vào kimcương,sau khi phản xạ nội, lại bị
phản xạ ra khỏi viên đá từ nhữngbề mặtbên trong của các mặtphía sau.Những lộ
trìnhtia sáng nội này và sự phản xạ bội là nguyên nhân gây ra vẻ lấp lánh của kim
cương, thườngđược gọi là “lửa” của nó. Mộthệ quả thú vị của một viên đá được
cắt hoànhảo lànó sẽ chosự phản xạ rực rỡ khi nhìn từ phía trước, nhưng trôngnó
sẽ tối hơnhoặc mờ đi nếu nhìn từ phía sau,như minh họa trong hình 6.
Các tia sáng phản xạ khỏi gương theo mọi góc mà từ đó chúng tới. Tuy nhiên,
trong một số trườnghợp nhất định,ánhsáng chỉ có thể phản xạ từ một số gócchứ
khôngtheo những góc khác, đưađếnmộthiện tượnggọi là sự phản xạ nội toàn
phần. Hiện tượng này có thể được minh họa bởi mộttình huống trongđó một
người thợ lặn đanglàm việc phíadưới mặt nước hoàn toàn êm đềm chiếu mộtlóe
sáng trực tiếp thẳng lên bề mặt nước.Nếu ánh sáng chạm vuông góc với bề mặt
nước, nó sẽ tiếp tục đi ra khỏi nước theophươngthẳng đứng vào khôngkhí. Nếu
chùmánh sáng đitới bề mặt với một góc nhỏ,sao cho nó chạm tớibề mặt ở một
góc xiên, thì chùm tia sẽ ló ra khỏi nước, nhưng sẽ bị bẻ cong bởi sự khúcxạ về
phía mặt phẳngnước. Góchợp giữachùm tialó và mặtnướcsẽ nhỏ hơn góchợp
giữachùm ánh sáng vàbề mặt dưới nước.
Nếu người thợ lặn tiếp tục điều chỉnh gócánh sáng sớt quabề mặt nước,thì
chùmtia đi ra khỏi nước ngày càng gần bề mặt hơn, chođến một số điểm nósẽ
song songvới bề mặt. Vì ánh sáng bị bẻ cong do khúc xạ, nên chùm tia ló sẽ trở nên
songsongvới bề mặt trướckhiánhsáng phía dướinướcchạm tới cùng mộtgóc đó.
Điểm màở đó chùm tia ló trở nên song songvới bề mặt xuất hiện gọi làgóc tới hạn
đối với nước. Nếu ánh sáng được chiếu góc nhỏ hơnnữa thìkhôngcó tia nào ló ra
cả. Thayvì khúc xạ, toàn bộ ánh sáng sẽ phản xạ ở mặt nước trở lại nướcgiống
như sự phảnxạ ở mặt gương.
Nguyên lí phản xạ nội toàn phầnlàcơ sở cho sự truyền ánhsáng trong sợi
quangmanglại các thủ tục y khoanhư phép nội soi, truyền tínhiệu điện thoại mã
hóa dưới dạng xungánh sáng, và những dụngcụ như các loại đèn rọi sáng sợi
quangdùngrộng rãi trong kínhhiển vi và nhữngcôngviệc khác yêu cầu hiệu ứng
chiếusáng chính xác. Lăng kínhđượcdùngtrongốngnhòm vàcamera phản xạ
một thấukính cũngsử dụng sự phản xạ nội toàn phần để hướngảnh qua vài góc
90 độ và đi vào mắt người sử dụng.Trong trường hợp truyềntin sợi quang, ánh
sáng đi vào mộtđầu sợi bị phản xạ nội vô số lần từ thành sợitheođường ziczắc tới
đầu bênkia, không có ánh sáng nào thoátra khỏi thànhsợi mỏng mảnhcả. Phương
pháp “thổi” ánh sáng này có thể duy trì trên những khoảngcách xavớivô số điểm
uốndọctheo đườngdẫnsợi quang.
Sự phảnxạ nội toàn phần chỉ có thể xảyra dướinhững điều kiệnnhất định.
Ánh sángphải truyền trong môi trường cóchiết suất tương đối cao, vàgiá trị này
phải caohơn giá trị chiết suất củamôi trườngbao quanh.Nước, thủy tinh, và nhiều
chất plastic, do đó, có thể đượcsử dụngkhi chúng được baoquang bởi không khí.
Nếu chọn chấtthích hợp,sự phản xạ của ánh sáng bên trong sợi hayống quangsẽ
xảy ra ở góc cạn sovới bề mặt bên trong (xem hình 7),và tất cả ánh sáng sẽ được
giữ toànbộ bên trong ốngcho tới khi nó đi ra khỏi đầuphía bên kia. Tuy nhiên, ở
đầu vào sợi quang, ánhsáng phải chạm tớiở góc tới lớn để truyền qua lớp baovà
đi vào sợi.
Nguyên lí phản xạ được khai thác lợi ích tolớn trong nhiều thiết bị và dụng
cụ quanghọc và thườnggồmáp dụng nhiều cơ chế khác nhauđể làm giảmsự phản
xạ khỏi bề mặt thamgia vào sự tạoảnh. Cơ sở của công nghệ chốngphản xạ là điều
khiểnánhsángsử dụngtrong dụngcụ quangtheo kiểu sao cho cáctia sáng phản
xạ khỏi bề mặt nơinó được mongđợi và có lợi, và không phản xạ khỏi bề mặtnơi
có ảnh hưởng có hạilên ảnh quan sát được. Mộttrong những tiến bộ nổi bật nhất
trong việc chế tạo thấu kính hiện đại, dùngtrong kính hiển vi,camera hoặc những
dụngcụ quangkhác, là thành tựu củacông nghệ phủ chống phản xạ.
Những lớp phủ mỏng loại vật liệu nhất định, khi áp dụng với bề mặt thấu
kính, cóthể giúp làm giảm sự phản xạ khôngmong muốn từ bề mặt cókhả năng
xảy ra khiánh sáng truyền qua hệ thấu kính. Nhữngthấu kính hiện đạiđược hiệu
chỉnhcao đối với sự quangsai, nói chung cónhiềuthấu kínhriêng rẽ, hoặc các đơn
vị thấu kính, và thường được gọi đúng hơn là hệ thấu kính hoặc hệ quangcụ. Mỗi
mặtphân giới không khí-thủy tinh trong một hệ như vậy, nếu không được phủ
chất làm giảm sự phản xạ, có thể phản xạ từ 4 đến5%chùm ánh sáng tới thông
thường khỏi bề mặt, kếtquả là giátrị truyền chỉ đạt 95 đến 96% ở sự tới bình
thường. Ứngdụng củalớp phủ chốngphản xạ dày 1/4bước sóngcó chiết suất đặc
biệt được chọncó thể làm tănggiá trị truyền thêm 3 tới 4%.
Vật kínhhiện đại dùngcho kínhhiển vi, cũngnhư dùng chocameravà các
quangcụ khác, ngày càng trở nên phức tạp và tinh vihơn, và có thể gồm 15 hoặc
nhiều hơn đơnvị thấu kính ghép lại với nhiều mặtphân giới thủy tinh-khôngkhí.
Nếu không cóđơn vị nào đượcphủ chất, sự thất thoát do phản xạ trongthấu kính
khỏi tia trục sẽ làm giảmgiá trị truyền đi khoảng 50%. Trước đây, nhữnglớp phủ
đơn lẻ đã đượcsử dụngđể làm giảm ánh chói và làm tăng sự truyền sáng, nhưng
những lớp nàydần bị thay thế bởi những lớp phủ nhiều lớp có thể mang lại giá trị
truyền trên 99,9%đối với ánh sáng khả kiến.
Hình 8 là giản đồ mô tả sóng ánh sángphản xạ từ một đơn vị thấu kínhcó hai
lớp phủ chống phản xạ. Sóng tới chạm phải lớpthứ nhất (lớp A trong hình 8)tại
một góc, kết quả làmột phần ánh sáng bị phảnxạ (R
0
)và một phầntruyền qualớp
thứ nhất.Khi đi vàolớp chốngphản xạ thứ hai(lớp B), một phần khác củaánh
sáng (R
1
) bị phảnxạ theo gócnhư cũ và giaothoa với ánh sáng phản xạ từ lớp thứ
nhất.Mộtsố ánh sángcònlại tiếp tục đi tới mặt thủy tinh,ở đó chúng lại bị phản xạ
một phần và một phần truyền qua.Ánhsáng phản xạ khỏi mặtthủy tinh(R
2
) giao
thoa (cả tăng cường và triệt tiêu)vớiánh sángphản xạ từ các lớp chống phản xạ.
Chiết suất củacác lớp chống phản xạ khácvớichiết suấtcủa thủy tinhvà môi
trường baoquanh(không khí), và đượclựa chọn cẩn thận theo thành phần của
thủy tinhdùng trong đơn vị thấu kínhnhất địnhđể tạo ra góc khúc xạ mong muốn.
Khi sóngánh sángtruyền quacác lớpphủ chống phản xạ và mặt thấu kính thủy
tinh, gần như toànbộ ánh sáng (phụ thuộcvào góc tới) cuốicùng được truyềnqua
đơn vị thấu kính vàhội tụ để tạo nên ảnh.
Magnesium fluoride làmột trongnhiều chất được dùnglàm lớp phủ mỏng
chống phản xạ quang, mặc dù đasố các nhà chế tạo kính hiển vivà thấu kính hiện
nay cócôngthức chất phủ độc quyền riêng củahọ. Kết quả nói chungcủa những
lớp phủ chống phản xạ này là nócải thiện sâusắc chất lượng ảnhtrong cácquang
cụ do nó làm tăng sự truyền bướcsóngkhả kiến,làm giảm ánh chói từ sự phản xạ
khôngmong muốn,và loại trừ sự giaothoa từ những bước sóng khôngmongđợi
nằm ngoài vùngphổ ánhsáng khả kiến.
Sự phảnxạ của ánhsáng khả kiến là một tính chất hành xử củaánh sáng
đóngvai trònền tảng trong chức năng của mọi kính hiển vi hiện đại. Ánh sáng
thường bị phản xạ bởi một hoặc nhiều gương phẳng trongkính hiểnvi hướng
đườngđi ánh sáng quathấu kính hình thành nên ảnhảo mà chúngta nhìnthấy
trong mắt (thị kính). Kínhhiển vi cũng sử dụng các bộ tách chùmtia để chophép
một số ánhsáng phản xạ, đồngthời truyền qua một phần ánhsáng đếnnhững
phần khác củahệ quang cụ.Những thànhphầnquang khác trong kínhhiển vi, như
các lăng kínhđượcchế tạo đặcbiệt, các bộ lọc, và nhữnglớp phủ thấu kính, cũng
thực hiện chứcnăng của chúng trong việc tạo ảnh trên cơ sở hiện tượng phảnxạ
ánh sáng.