Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Gábor Dénes - Nobel Vật lý 1971 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.81 KB, 7 trang )

Gábor Dénes - Nobel Vật
lý 1971
Các nhà bác học Hungary luôn luôn nổi tiếng một cách huyền thoại về
phương pháp suy nghĩ liên ngành (interdisciplinary). Về việc họ thường bất
chấp những qui luật đã trở thành những tín điều của vật lý, hóa học, sinh học
- cùng lúc mạo hiểm khám phá trên nhiều lĩnh vực khoa học, đôi khi liên kết
những hiện tượng hoàn toàn khác biệt – họ đã đạt được những giải pháp
mới lạ bất ngờ.
.
Nhà bác học Gábor Dénes (1900-1979)
Không phải ngẫu nhiênnhà vậtlý nguyên tử đoạt giải Nobel Enrico Fermi
khẳng định: ”Tất cả những người Hungary mà tôi đã gặp đều độc đáo hoặc cực kỳ
độc đáo”. Ông có nhiều dịp gặp gỡ người Hungary vì trong số những nhà khoa học
lao tâmkhổ tứ giải phóngnăng lượng nguyên tử,ông thườngxuyên chạm trán với
họ.
Nói đến lối suy nghĩ độc đáo, nhà bác học đoạtgiải Nobelcủa chúngta–
Gábor Dénes - cũng làmột ngườinhư thế. Cánhân ông là sự hội tụ may mắn của
những tính cách đôi khingay cả những người tàinăngđặc biệt cũngchỉ sở hữu
từng thứ một: khả năng nhìnnhận vấnđề, kiến thức lýthuyết cơ bản, thiên hướng
nghiêncứu khôngmệt mỏi, sự nhạy bén kỹ thuật tinh tế và óc tổng hợp.Với ý
nghĩa như vậy, Gábor Dénes là hiện thân hình mẫu một kỹ sư xuấtsắc.Trongđời
ông đã đăng kýgần mộttrăm bằng phátminh sáng chế, mỗi cái đều đángđược
khảo cứu riêng.Dĩ nhiênphát minhquantrọng nhất củaông là kỹ thuật dùng tia
la-de để chụp ảnh ba chiều (holograph),mà ôngđã phát minhra nhờ đoạntuyệt
với phươngpháp chụp ảnh truyền thống vàmô tả theo quan điểm hoàntoàn mới
cách thức có thể ghi lạithông tin ảnhtruyền qua đường ánh sáng. Với holograph,
Gábor Dénes đã xóa nhòa danh giới của vật lý, điện tử và tin học, tạođiều kiện
khámphá thêm nhiềuđiều bí ẩncủa khoahọc.
Gábor Dénes sinhngày 5-6-1900 tại Budapest.Ông theo học vàtốt nghiệp
Trường trung học phố Markó, sauđó năm 1918 ông vào họctại Trường Đại học
Kỹ thuật Budapest.Hainăm sau,ông chuyển sang theo học Trườngcao đẳngkỹ


thuật Charlottenburg (Đức), và nhận bằng kỹ sư tại đây.Đầu tiên ông bắt đầu
nghiêncứu các vấn đề kỹ thật củađường dây tải điện cao thế. Năm 1927,ông bảo
vệ luận án tiến sĩ, rồitới Berlinlàm việc cho hãng Siemens-Halske.Sau khiHitler
lên nắm quyền ở Đức, ông trở về Budapestlàm việctrong Phòng thí nghiệm của
Nhà máy Egyesült Izzó (Bóng đèn Thốngnhất), tại đây ông thử thực hiện một sáng
chế của mình là đèn plasma.Nguyên lý đèn natriplasmakích thích điệntử đã được
ông phát minh ratừ khi còn làm việc cho hãng Siemens ở Berlin.Nguyên lý này
dựa trêncơ sở mật độ điện tử cần thiết có thể đạt được trong các chất khí ápxuất
cực thấp: ” nếu một katốt ôxi hoạt động trong không gian chất khí hoặc hơi áp xuất
thấp, thì các iôn sẽ xâm nhập vào không gian katốt và trung hòa không gian catốt,
nhờ đó số số lượng điện tử phóng ra sẽ tăng lên, và có thể thay đổi giữa những giới
hạn rộng trong khí plasma. Nói cách khác: nếu chế tạo được đèn plasma trong thực
tế, ta sẽ có một nguồn chiếu sáng có thể nối vào mạng điện và hết sức tiết kiệm".
Cùng với Budincsevits Antal –một trợ lý rất đắc lực trong cácthí nghiệm – ôngđã
cải tiến kết cấu nhiều lần và nâng tuổi thọ của đèn plasmalêntới vài trăm giờ,
nhưng Nhà máy Egyesült Izzó không muốn phát triển và sảnxuất hàng loạt.
Năm 1937,Gábor Dénes chuyển sangđịnh cư tại Anh vàlàm việc trong
phòngthí nghiệm củahãng điện tử Thomson Houston tới năm 1948. Tại đây trước
hết ông bắt đầu nghiêncứu về quanghọc điệntử, trongđó cóviệc hoàn thiện kính
hiển viđiện tử. Một vấn đề thường xuyên gây khó khăn,đó là sự quang saixuất
hiện bởidạng hình cầu củacácthấu kính làm hìnhảnh bị biến dạng, hiện tượng
này xuất hiện như sau: các tia sáng song song dọi vào thấu kínhbị gãy khúc nhiều
hơnở phía vành,so với phía gần trục quang học của thấu kính, vì thế việc điều
chỉnhtiêu điểm khôngchuẩnvà hình ảnh bao giờ cũng hơi méo mó, không thật.
Chínhnhững nghiên cứu này đã mang đến cho Gábor Dénes thànhcôngkhoa học
lớn nhất vàonăm 1947,đó là nguyên lý holography(chụp toàn ảnh). Theosuy
nghĩ của ông, hìnhảnh có thể hoàn thiệnhơn nếuchúng ta giữ lại tất cả các thông
tin tiềm ẩn trong nó. Muốn vậyviệc ghi lại cường độ sóng điệntừ phản chiếu từ vật
thể cần tạo ảnh,như cách thườnglàm trên phimhoặc giấy ảnh là không đủ, mà cần
phải lưu giữ pha và biên độ của sóng ánh sáng.Hai thông số cuối này chứa thông

tin về sự sắp đặtkhônggian củavật thể, và nhờ chúng, có thể tạothành ảnhkhông
gian đầy đủ.
Gábor Dénes đã dựa theo gốc Hy Lạptạo ra têngọi cho phương pháp của
mình (tiếng HyLạp: holo= tấtcả, đầy đủ, grafo = ảnh). Trongcác thí nghiệm ông
đã tách đôi chùmtia chiếu sáng - nhờ một gương bán mạ chỉ cho một nửa ánh sáng
đi qua– một chùm chiếu vào vật thể, chùm kiađược hướng vào mặt tấm ghi ảnh.
Chùmtia này có tác dụngqui chiếu, nó sẽ hòa lẫnvới cáctia phântán phản chiếu
từ vật thể. Trên mặttấm ghi ảnh thựcchất diễn raquá trình ghi lại sự giao thoa
củahaisóngánhsáng.Tuynhiên khiđó chưa cócác nguồn sángxung(cáctialade),
nên nhữngthí nghiệm của Gábor Dénesmới chỉ hé mở những khả năngnguyên lý
của holography. Tầm quan trọng của nó chỉ thực sự được nhận biết sau khixuất
hiện tia lade(1962), vàngay lập tức nó trở thành tâmđiểm của sự chú ý. Một ưu
thế đặcbiệt của nó làkhi chụp ảnhgiao thoa khôngcần đến thấu kính tạoảnh.
Holography đã tạo thay đổi cơ bản kỹ thuật ghi lại những quá trìnhkhông gian tồn
tại trongkhoảng thờigian ngắn,ví như các hiện tượngchảy của chất lỏng. Ảnh
chụp được có độ phóng đại bằngtỉ lệ bước sóngcủa cáctia sử dụng khi chụp và tái
hiện ảnh giaothoa. Ví dụ ảnh chụp với tiaRöntgenbướcsóng 0,1 nm(nanometer),
với sự tái hiện ảnh bằng nguồn sángđỏ bước sóng 600nm sẽ đạt độ phóng đại
6000 lần.Có thể ứng dụng hologram để tạo giaothoa giữaluồngsáng ghi nhận
khôngđồng thời. Phạmvi ứngdụng củaholographyvô cùngrộngrãi.
Sơ đồ phương thức chụp ảnh giao thoa lade (hologram). Chùm tia lade
A được tách đôi nhờ gương bán phân L. Chùm tia qui chiếu R đến thẳng mặt
ghi ảnh H, chùm kia chiếu lên vật thể T. Các tia sáng phản chiếu từ mỗi điểm
A, B, C của vật thể sẽ tới tất cả các điểm P, Q của tấm H. Sóng phân tán và sóng
qui chiếu sẽ được ghi lại trên tấm H
Từ năm 1949, Gábor Dénes tiếptục các nghiêncứu của ôngvớitư cách giáo
sư bộ mônquangđiện của ImperialCollege. Ôngtiếp tục phát triển lý thuyết
plasmatrước đây,đồngthời đưa ra nguyên lý magnetofon(ghi âm từ tính), thiết
kế buồng Wilson có thể đo tốcđộ các hạt,chế tạo kính hiểnvi holography, sauđó
ôngbắt taythựchiệnmơ ước từ lâucủamình:nghiêncứuchế tạoTV màn hìnhdẹt.

Ông đưa ra giải phápmới : các tia elektron gãy khúc nhiều lần sẽ chạy song song
với mànhình.Do việc chế tạo cácmàn hình này đòi hỏi kỹ thuật quáphức tạp, khi
đó các nhà sản xuất khôngdámsản xuấthàng loạt. Nguyên lý của TV màn hình
mỏngđược ưachuộng ngày nay đã được Gábor Dénes đưa ratừ những năm 60.
Sau nhiều lầnđược đề cử, năm 1971 giải Nobel vật lýđã được traocho
Gábor Dénes vì „phát minh ra phương pháp holography (chụp toàn ảnh) và các
đóng góp phát triển phương pháp này”, với sự nhất trí cao của giới khoahọc. Gábor
Dénes trở thànhnhà khoahọc có uy tín nổi danhvà đượctôn trọng tronggiới khoa
học quốc tế. Ngaytừ năm 1964,ông đã được bầu làviện sĩ danh dự của ViệnHàn
lâm Khoa họcHungary.Sau này ông là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa họcHoa Kỳ,
thành viên củaRoyal SocietyLondon, và tiến sĩ danh dự của nhiều trườngĐại học
lâu đời trên thế giới. Ông đã nhận giải thưởng Colombus củaViện thôngtin Quốc tế
Genova (Ý), kỷ niệm chương của Instituteof Electrical andElectronic Engineers,
Huân chương RumfordcủaRoyalSociety, giải Holweck của Hội Vật lýPháp, và
được Hoàng gia Anh phong tước Hiệpsĩ.
Những năm đã có tuổi ông thườngđề cập tớivề nhữngvấnđề triết học.
Trướchết ông quan tâm đến tương lai của nhân loại. Liên quanđến đề tài này, ông
đã cho xuất bản:”Phát hiện tương lai” (1963),”Những đổi mới khoahọc, kỹ thật và
xã hội” (1970), ”Xã hội trưởng thành” (1972).Ông thườngxuyên về thăm quê
hươngvà luôn tự hào coi mình làngười Hungary.
Ông mất vì chảy mạch máu não tại London ngày 9-2-1979. Tài năng và nhân
cách của ông xứng đánglà tấm gương cho tấtcả những người đã gắn bócuộcđời
với khoa học.

×