Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

SỰ KIỆN NOBEL VẬT LÝ 1995 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.01 KB, 12 trang )

GIẢI NOBEL VẬT LÝ 1995
Cha của Perllà Oscar Perlvà mẹ của Oerl là FayRosenthai.Khoảng năm
1900 cha mẹ Perlđến Mỹ lúc còn nhỏ. Cha mẹ ông là những người gốc ở một vùng
nói tiếng Ba Lan khiđó thuộc Nga. Họ rời Ngađể thoát khỏi đóinghèo và trốn
tránh tệ bài trừ DoThái. Cha mẹ ông lớnlên trong các khu vực nghèocủa thành
phố NewYork. Cha ôngở quậnEast Sidecủa Manhattan vàmẹ ông ở quận
Brownsville của Broolyn.Họ chỉ được họchết ttung cao. Chaông làmthư kývà sau
đó làm ngườibán hàng trong một công ty liên quanđến in ấnvà văn phòngphẩm.
Mẹ ông cũnglàm thư ký và sau đó làm nhân viên kế toán trong mộtcôngty buôn
bán len. Cha mẹ ông quyết tâm chuyển vào tầng lớptrung lưu. Vào lúc chị emông
được sinhra trong những năm 1920, cha ông đã lập ra một công ty inấn và quảng
cáo cótên là Allied Printing. Trong nhiều năm, công ty của cha ônglà mộtdoanh
nghiệp khôngchắc chắn. Tuynhiên, công ty này duytrì cuộc sốngcủa gia đình ông
trong tầng lớptrung lưu quathời kỳ suythoái kinhtế của những năm 1930.Chị
em ôngđược học hành đầy đủ ở những trườngtốt. Các trườnghọc và thái độ của
cha mẹ ông đối vớitrường học đóng vaitrò quantrọng để thúc đẩy ôngtrở thành
một nhà khoa họcthực nghiệm. Chamẹ ôngcũngnhư những người nhập cư khác
coi các giáo viên trườnghọc như nhữngngười thuộc tầng lớp thượnglưu. Các hiệu
trưởng là các vị chúa trời được tôn thờ mà các học sinh và cha mẹ của chúng
khôngđược phépgặp. Các bậc cha mẹ học sinh không baogiờ được đến trường để
trao đổi về chươngtrình học hoặc gặp gỡ giáo viên của con cái họ. Mộtngười nào
đó bị gọi đến trườngvì lỗi của con cái cũngnghiêm trọng như bị gọi đến trạm cảnh
sát vì tội cướpnhà băng. Sự xa cách của cha mẹ ông đối với cáctrường học thường
làm cho ôngđau khổ nhưng ôngsớm học đượcsự đốiphó với thế giới bên ngoài và
đôi khi là thế giớikhó khăn. Nhà thực nghiệm liên quan đến tự nhiên đối diện với
thế giới bên ngoàivàthường là khókhăn. Perl tốt nghiệptrường Trungcao James
Madisonở Broolynnăm 1942lúc ông 16tuổi. Chị em với ôngtốt nghiệp trung cao
lúc 15 tuổi rưỡivà sau này trở thành mộtnhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Trẻ em ở Mỹ
thường bắtđầu đi học lúc 6 tuổi, học8 năm trường cơ sở, học4 năm trường trung
cao vàtốt nghiệptrung cao lúc18 tuổi. Chị em ông đã học nhảycóc ở trường cơ
sở. Ở trường phổ thông, Perl rấtthích đọc sách và say mê cơ khí. Ôngđọc bất cứ


thứ gì có được như tiểuthuyết, lịch sử, khoahọc, toán học, tiểu sử, du lịch, Có hai
thư việncôngtự doở gần nhà ông.Ông mượnsố sáchtối đa mà thư việncho phép
mượn một lần là sáu cuốn. Cha mẹ ôngmuốnôngchơithể thao nhiềuhơn vì họ
nghĩ rằng concái của họ là nhữngngười Mỹ một trămphần trăm và tấtcả những
người Mỹ đều chơi và yêu thích thể thao. Perl thích nhữngngày mưa vì ông không
phải đira ngoài trời để chơi thể thao. Perl thích chơi bộ xây dựng Erector. Bộ này ở
Mỹ tương đương với các bộ Meccano và Marklinở Anhvà châu Âu. Ông thuthập
các bộ xây dựng cũ của Mỹ, Anhvà châu Âu, thậm chí nghĩ ravà chế tạo mô hình
của một bộ xây dựng bằnggỗ gọi là BIG-NUT.Perl lắp ráp các đồ chơi và các mô
hình bằnggỗ. Ôngđọc các tạp chí “Cơ học đại chúng”,“Khoa học đại chúng”và say
mê tấtcả những gì thuộc về cơ học như xe ô tô, tàuhơi nước, tàu hỏa, xe tải, Perl
còn quantâm đến hóa học nhưng chamẹ ôngkhông thích mua cho Perlmột bộ
hóa học. Ôngcó một ít hóa chất và khiông mua axitsunfuric và axit nitric,cha ông
tịch thu các axitvì sợ không an toàn.Thực lạ là Perl không quantâm đến vô tuyến
nghiệp dư vàlắp ráp vô tuyến.Đó là nhữngnăm 1930khicác ống chânkhông và
các bộ ngưngtụ biến đổilàm choviệc lắp ráp vô tuyến mangtính cơ học. Ngoài
việc học giỏi ở trường, yêu thích sách vở (nhất là khoa họcvà toán học)và cơ khí,
Perl không baogiờ nghĩ mình sẽ trở thành một nhà khoahọc. Điều đó là vì con cái
của nhữngngười nhập cư như chị emôngcó quanniệm rằngcần phải sử dụng học
vấn củamình để “kiếm sống tốt”. Mộtcuộc sống tốtđối với nhữngngười Do Thái
thuộctầng lớp trung lưucó nghĩa làđàn bà cần trở thành giáoviên hay y tá, còn
đàn ông cần trở thành bácsĩ, nha sĩ, luậtsư hay nhân viên kế toán.Perl không nghĩ
mình sẽ làm nghề buônbán vì những khó khăn của thời kỳ suythoái kinhtế không
làm cho buôn bán trở thành mộtcách tốt để kiếm sống. Mặcdù Perl đượctặng
thưởng huychươngvàngkhi tốt nghiệp trườngtrung cao,ông không nghĩ mình sẽ
trở thànhmột nhà vật lý hoặcbất cứ kiểu nhà khoahọc nào. Cha mẹ ôngvà ông
biết một ít cácnhà khoa họcnhư Pasteur và cóthể là Einsteinnhưng họ không biết
được rằng đối với một ngườiđàn ôngcó thể kiếm sốngtheo kiểu của mộtnhà khoa
học.
Perl quyết định học tiếp về kỹ thuật để trở thành kỹ sư.Điều này phù hợp

với sở thích của ôngvề cơ khí,khoahọc và toánhọc nhưngtrái với nguyện vọng
của cha mẹ ông muốn ôngtrở thànhbác sĩ, nhasĩ, luật sư hay nhân viên kế toán.
Đó là mộtsự lựachọn bất thườngđối với một thanh niên Do Thái vào đầu những
năm 1940vì khi đó còn nhiều tệ kỳ thị ngườiDo Thái trong cáccông tykỹ thuật.
Perl đăngký vào họcĐại học Bách khoaBroolynngànhkỹ thuật hóa chất.Có một
số lý do khiông chọn học ngànhnày. Hóa họclà một lĩnhvực rất sôi động vàocuỗi
những năm 1930và đầu nhữngnăm 1940.Hóa học đã đem lại cho cuộc sống của
người dân những vậtliệu tổng hợpnhư nylon.Người tatuyên truyền trên đài phát
thanh về “những điều tốt đẹp hơn cho cuộc sống tốtđẹphơn thông quahóa học”.
Hơn nữathông qua quan hệ làm ăn giữa công ty của cha ôngvà các công ty hóa
chất, ông biết được rằng các công ty hóa chất ngày càngmở rộngvà luôn có một
công việc tốt trong ngành kỹ thuật hóa chất.
Việc họcđại học của Perl bị gián đoạn bởi chiến tranh. Perl muốntham gia
quân đội Mỹ nhưng ôngchưa đến 18tuổi vàcha mẹ ông lại không cho phép. Tuy
nhiên,cha mẹ ông đồngý cho ông rời khỏi trường Đại học Bách khoa để trở thành
một họcviên sĩ quankỹ thuật tại một học viện hải quân.Sau khi chiếntranh kết
thúc,Perl rời khỏi hải quânvà làm việccho công ty của cha ôngtrong khi chờ quay
trở lại trườngđại học. Ôngcòn phải thực hiệnchế độ quân dịch một năm ở
Washington D.C. Sau đó, ôngquay trở lại Đại học Bách khoa vàtốt nghiệp trường
này năm1948.
Các kỹ năng và kiến thức mà Perl học được ở Đại học Báchkhoarất quan
trọng cho toàn bộ các nghiên cứuthực nghiệm của ông như sử dụng các nguyên lý
sức bềnvật liệu trong thiết kế thiết bị, thực hành phânxưởng máy móc, vẽ kỹ
thuật, cơ học chất lỏngthực hành, hóa vôcơ và hữu cơ, các kỹ thuật phòng thí
nghiệmhóa, các quá trình sảnxuất, luyệnkim, các khái niệm cơ bản trongkỹ thuật
cơ khí, các khái niệm cơ bản trongkỹ thuật điện,phân tích thứ nguyên,
Sau khi tốt nghiệp đại học, Perl được nhậnvào Công ty điện General. Sau
một năm tham gia chương trìnhhuấn luyện kỹ thuật nâng cao, ông làm kỹ sư hóa
chất trong bộ phận ốngđiện tử tại Schenectadyở NewYork. Ông ở phòng kỹ thuật
trong một nhà máysản xuất ống điện tử. Côngviệc của ông là giải quyếtcác sự cố

kỹ thuật, cải tiến quá trình sản xuất và thỉnh thoảngtiến hànhmột ít nghiên cứu
triển khai. Ông xemxét việc tăng năng suất ống đènhìnhvà các vấnđề về sự phát
xạ của lưới trong các ống công suất công nghiệp.Perl họcđược một ítvề hoạt động
của cácống chân không điện tử. Ôngtham dự một số khóa học tạiCao đẳng Union
ở Schenectady đặc biệt là vật lý nguyên tử và phươngpháp tính toán hiện đại.Một
giáo sư vật lý là VladimirRojanskycó một lần nói với Perl rằng :“Martin,cái mà
cậu quantâm được gọi là vật lý chứ khôngphải là hóa học!”. Vào tuổi 23,Perl cuối
cùng quyết địnhbắt đầu nghiên cứuvật lý.
Tháng 8 năm 1950Perl làm nghiêncứu sinhhệ đàotạotiến sĩ vật lý tạiĐại
học Columbia. Trước đó, ông chỉ thamgia hai khóa học vật lý trong đó ông họcmột
năm vật lý sơ cấp và nửa năm vật lý nguyên tử. Có một số lýdo để ônglàm nghiên
cứu sinhvào năm 1950. Thứ nhấtlà việc làm nghiên cứu sinh vật lý vàonăm 1950
đơn giản hơn nhiều so với cácchuẩn hiện nay.Perl khôngphải học cơ học lượng tử
cho đến năm thứ hai và chỉ học vật lý cổ điển ở năm thứ nhất. Ôngtừng học được
một ítcơ học lượng tử tiên tiến nhất ở Heitler và ông không hi vọng có thể tiến
hành cáctính toán trong điện động lựclượng tử. Thứ hai là ôngnghĩ rằng các sinh
viên khoa Vậtlý của Đại học Columbiaphải tự học, tự nghiên cứu mà không cần
người hướng dẫn. Perl nghĩ mình có khả năng họcđược bất cứ điều gì mộtcách
nhanhchóng. Khi vào học rồi ôngmới thấymình sai.Ông nhận ra có nhiều nghiên
cứu sinhtài giỏi và được đàotạo tốt hơnông. Cha mẹ ông ngạc nhiên khi thấy ông
quay trở lại trường đại học.Ông phải nói với họ rằngvậtlýlà cái mà Einstein đã
kàm, Họ nghĩ rằng nếuEinstein làmđược thì Martincủa họ cũngcó thể làm được.
Đối với Perl,Đại học Bách khoa là quan trọngđể ông học làmkỹ thuật, Cao
đẳng Union vàVladimir Rojanskylà quan trọng để ông lựa chọn ngành vật lý và
Đại họcColumbia vàngười hướng dẫn của ônglà I. I. Rabilà quan trọng để ông học
làm vật lý thực nghiệm.Đề tài luận ántiến sĩ của ông liên quan đến việcsử dụng
phươngpháp cộng hưởng chùm nguyên tử để đomô mentứ cựctrong hạt nhân
natri. Phép đo này đã được thực hiện nhờ sử dụng mộttrạng thái nguyêntử kích
thích vàRabi đã tìm racách để làm điều đó.
Là mộtnhà khoa học nổi tiếng,Rabi không bao giờ sử dụng các công cụ hoặc

thao tácvận hànhthiết bị. Perl họcđược cáckỹ thuật thực nghiệm từ các nghiên
cứu sinhnhiều tuổi hơn vàthỉnh thoảng đến một đồng nghiệp của Rabilà Polykarp
Kuschđề nghị giúp đỡ hoặc khuyên bảo. Perl ghét đến chỗ Kusch vì đến đó chẳng
dễ chịu chút nào. Kusch nóito và cố tìnhlàm giọng của mình to hơn để toàn bộ
tầng nhà củacácsinh viên có thể nghe đượccâu hỏi ngốc nghếchcủa một nghiên
cứu sinh.
Perl tự học các kỹ nghệ của một nhàthực nghiệm. Ônghọc nhanhvà sau này
ông nói với cácnghiên cứu sinh của ông rằng khôngcó các câu trả lời ở phía sau
của cuốnsách khithiết bị không hoạtđộng hoặcphép đocó vẻ xalạ.
Perl họcđược nhữngđiều quí giá hơn các kỹ thuật thực nghiệm từ Rabi. Ông
học đượctầm quantrọng sâu sắc củaviệc lựachọn các vấn đề nghiên cứu riêng
của một ai đó. Rabicó một lần nói với Perl rằng Rabilo lắng khi nói chuyệnvới Leo
Szilard vì Szilardcó đề xuất mộtý tưởng nào đó với Rabi. Điều đó là vì Rabi sẽ
khôngthực hiện một ý tưởngdo một người khác đề xuất mặc dù Rabi cũng đang
suy nghĩ về cùng ý tưởngvới người đó. Perl còn họcđược ở Rabi về tầm quan
trọng của việc tìm ra mộtcâu trả lời đúng và kiểm tra nómột cách toàn diện.Khi
Perl hoàn thành phép đocủa mìnhvề mô mentứ cực, ông háo hức muốn công bố.
Nhưng Rabinghethấyrằng mộtphép đo tươngtự đã được tiến hành bởi phương
pháp cộng hưởng quangở Pháp. Rabi viét thư cho các nhàvật lý Pháp để hỏi xem
họ có câutrả lời tương tự hay không. Rabikhônggọi điệnthoại hoặc gửi điện tín
mà viết thư rất bình tĩnh. Perlrất sốt ruột chờ đợi. Sáu hoặctám tuần sauđó Rabi
mớinhận được thư trả lời rằng ghọ có câu trả lời tương tự. Khi đó, Perlmới được
phép công bố. Tốt hơnlà hãycông bố kết quả chậm lạisau khiđã kiểm tra kỹ
lưỡng kết quả. Công bố saumột kết quả đúng tốt hơncông bố trướcmột kết quả
sai. Rabiluôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứumột vấn đề cơ
bản. Rabiđã hướng Perl đi vào vật lý hạt cơ bản.Điều này là tự nhiên đốivới Perl
để ông tiếp tục nghiên cứuvật lý nguyên tử. Nhưngtại sao Rabithuyết phụcPerl
chứ không phải cácđồngnghiệp kháclàm về vật lý nguyêntử chuyểnsanglàm về
vật lý hạt cơ bản. Perlcho rằng hầu hết sự thuyết phục công khai này có thể làcách
cố tìnhchọctức cácđồng nghiệp của Rabi.

Năm 1955 Perlbảo vệ luận án tiến sĩ và ông nhận được các lời mời làm việc
từ các khoaVật lý của Đại học Illinoisvà Đại học Michigan ở Yale.Khi đó, haikhoa
này đềucó danh tiếng nhiều hơn về vật lý hạt cơ bản. Perl có tìnhđến Michigan.
Ông tuân theo một định lýgồm hai phần vàông luôn luônkhuyên bảo các nghiên
cứu sinhvà cộng tác viên nghiên cứusau tiến sĩ của minhlàm theođịnhlý này.
Phần thứ nhất của định lýnày là không chọn nhóm hoặc bộ môn thựcnghiệm
mạnhnhất mà chọn nhómhoặc bộ môn ở đó bạn cósự tự do lớn nhất. Phần thứ
hai của định lý này làcó thuận lợi khilàm việc trong một nhóm nhỏ hoặc mới và
khi đó bạn sẽ có lòng tin về điều màbạn thực hiện.
Ở Michigan,lúc đầuPerlnghiên cứu vậtlý buồng bọtcùng với GonaldGlaser.
Nhưng Perlmuốn làm công việc riêngcủa mình.Khi người Nga phóngvệ tinh
Sputniknăm 1957, Perl nhìnthấy cơ hội và phối hợp cùng với đồng nghiệpcủa
mình là LawrenceW. Jones viết cho Washington để đề nghị kinhphí nghiên cứu.
Họ bắt đầu chương trình nghiên cứuriêngcủa họ khi sử dụnglúc đầu là buồng
phátquangvà sau đó là buồng tia lửa.
Khi nhìn lại những năm tháng trong cuộc đời mình,Perl cho rằng yếu tố
quan trọng nhất dẫn đến sự thànhđạt của ônglàsự may mắn. Ôngđã gặp may khi
là một đứa trẻ trong nhữngnăm suy thoái kinhtế và khi là một thanhniên trong
những năm chiến tranh.Ông sống trong một đất nước trong đó mọi người đều có
niềmtin là lao động chăm chỉ và kiên trì sẽ vượt quanhững khókhăn lớn và dẫn
đến thành công.Perl đã chọn đúnghướng đi của mình.Sự tiếnbộ trongsự nghiệp
của ông gắn với sự phát triển củacáctrường đại học và sự đầu tư to lớn của Nhà
nước chonghiên cứu cơ bản. Perlnói rằng ở nước Mỹ “các việc làm có tính học
thuật tươngđối dễ dàngđạt được và duy trì, các quỹ nghiên cứu tươngđối dễ dàng
có được”. Tất cả đềurất may mắn cho ông và ông cho rằng maymắn lớn nhất của
ông là “sự tồn tại của tau”.
FrederickReinessinh ngày 16 tháng 3 năm 1918 tại Paterson(NewJersey)
và là con út trong mộtgia đình có bốn người con. Cha mẹ ông là Israel và Gussie
(Cohen). Họ cưới nhauở New York saukhi nhập cư vào Mỹ từ cùng một thị trấn
nhỏ ở Nga. Một người họ hàng ở Nga về đằng nội của ông là RabbiIsaacJacob

Reines(1839-1915)nổi tiếng vì sáng lập ra phong trào tôn giáo Ziongọi là
Mizrachi. Cha ôngrất khéotay và đã làm thợ dệt trước chiến tranhthế giớilần thứ
I. Sau chiến tranh, cha ôngmở một xưởngdệt tơ và cuối cùng chuyển đến quản lý
một cửahiệu ở Hillburn(NewYord). Lúc nhỏ, Reinesthích xây dựng cácvật và
thamgia vào nhóm ca hát ở trường. Âm nhạc trong đó đặc biệt là ca háttrở thành
mốiquan tâm chínhsuốt cuộc đời ông.Giáo ducban đầucủa ông chịu ảnh hưởng
mạnhbởi anh chị ruột của ông.Nhà ông có nhiều sách vì cácanhchị emông đều
thích đọcsách. Chị ông trở thành bácsĩ, còn hai anhông đều trở thành luậtsư.
Reineshọc ở trườngTrung cao UnionHill. Ở trường cơ sở, ông thích học văn. Còn
ở trường trungcao, ôngthích khoahọc. Một giáoviên khoa họcđộng viên khuyến
khíchReines,giao chìa khoá phòngthí nghiệmcho Reines và cho phép Reineslàm
việc ở đây bất cứ khi nào Reinesmuốn. Ông đượccử làm tổngbiên tậpcuốn sách
năm (yearbook)của trường Trungcao Union Hill. Cuốn sáchđưa ra câuhỏi về
khát vọngchính của các họcsinhsau khi tốt nghiệp trường trungcao. Câu trả lời
của Reinesmuốn trở thành “mộtnhà vật lý khác thường”.
Khi lựa chọn ngànhnghề vào học đại học,Reineslúc đầu định vào họcViện
Công nghệ Massachusetts. Trườngnày đã nhận ông và khuyên ông đề nghị cấp học
bổng trên cơ sở kết quả họctập ở trườngtrung cao. Tuynhiên,ông vàohọc Viện
Công nghệ Steven do ôngcó ấn tượng về sự uyên bác và nhiệt tìnhvới trườnghọc
của một nhân viên tuyển sinh củaviện này. Ở Viện Steven, ngoài việc học kỹ thuật
Reinestham gia hội diễn kịchvàmúa. Nhưng hoạt độngmà ông gắn bó lâudài là
hát trongđội hợp xướng. Ôngcó thể hát độc diễn (solo) các phần chínhtrong
“Messiah” của Handel.Giọng hát và tainhạc củaReinestốt đến mức người lãnh
đạo độihợp xướng đề nghị Reinestham gia luyệntập với mộtgiáo viên thanhnhạc
nổi tiếng ở nhà hát vũ kịch Metropolitan.Doông là sinhviên, ôngkhông thể trả
học phí học nhạc. Cuối cùng, ông được theohọc miễn phí ở nhà hát này. Đã có lúc
ông định theođuổi một sự nghiệp ca hát chuyênnghiệp. Mối quan tâm củaReines
đối với âm nhạc và kịch ở trường đại học theoông suốtđời. Những năm sauđó
trong lúc làm việc tại Los Alamos,ôngđã hát lĩnh xướng trong đội hợpxướng của
thị trấn và diễn kịch với hộikịch. Trong các vai kịch của ông có vaichỉ huy trong

“Thừa hưởng gió (Inheritthe Wind)”. Ôngcũnghát trong cácmàn nhạc kịch của
Gilbertvà Sullivanở Los Alamos.Đỉnh cao của những nỗ lực âm nhạccủa ông xảy
ra trong thờigian Reinessống ở Cleveland. Ôngđã diễn cùngvới dàn hợp xướng
của Dànnhạc giao hưởngCleveland dưới sự chỉ huycủa RobertShaw và người chỉ
đạo dànnhạc GeorgeSzell.
FrederickReinesnhậnđượcbằng tố nghiệp đại học ngành kỹ thuật năm
1939và thạc sĩ khoa họcngànhvậtlý toán năm1941đều ở ViệnCôngnghệ Steven.
Trongthời gian này, ông cướivợ làSylvia Samuelsnăm 1940. Vợ chồngông có hai
con là Robert G.và Alisa K. Cowden và sáu cháu.
Reineslàm nghiên cứu sinh tại Đạihọc New York. Ở đây ônglàm thực
nghiệmvật lý tiavũ trụ dướisự hướng dẫn của S. A. Korff và viết luận án tiến sĩ về
vật lý lýthuyết với đề tài “Môhìnhgiọt chất lỏng đối với sự phân rã hạt nhân”dưới
sự hướng dẫn của R. D.Present. Thậm chí trướckhi hoàn thành luận án của mình
vào năm 1944, Reines tham gia quân đội và làm nhânviên dưới sự hướngdẫn của
Richard Feynmanở bộ phận vật lý tại Phòngthí nghiệm khoahọc Los Alamos. Ông
đã thamgia vào Dự án Manhattanvàcác nghiên cứusauđó tại LosAlamos trong
khoảng 15năm. Nơilàm việc của ông có lẽ lànơi tập hợp lớn nhấtcủa các tài năng
khoa họcở khắp thế giới. Khoảng mộtnăm sau khiReines đếnLos Alamos,ông trở
thành mộy trưởng nhóm ở bộ phận lý thuyết vàsau đó làgiám đốc Nhàkính điều
hành (Operation Greenhouse)mànó bao gồm một số thực nghiệm của Ủy ban
Năng lượngnguyên tử ở Eniwetok. Ngoài nghiên cứucủa ông về các kết quả của
các cuộc thử bomở Eniwetok,Bikini và các bãi thử ở Nevada, tronggiai đoạn này
Reineshướng sự chú ý của mìnhvào việc tìm hiểu cácảnhhưởngcủa các vụ nổ hạt
nhântrong đó bao gồm nghiên cứu về sóng nổ không khí cùng với John Neumann.
Năm 1958Reines làmột đại biểu tại Hội nghị Nguyên tử vìhòa bìnhở Geneva.
Trongnhững năm 1950Reines tìmcách quansát neutrino. Thực tế là ý
tưởng tìm kiếm neutrinokhó bắt đã đến với ôngtừ năm 1947. Ôngvà một thành
viên khác ở Los Alamosđã có mộtsự hợp tác rất cóhiệu quả. Họ lúc đầu xemxét
việc sử dụngmột vụ thử bomhạt nhân làm nguồn neutrinonhưngsớm quyếtđịnh
rằng lò phản ứngở Hanford (Washington)sẽ tốt hơn cho mục đích này. Sau những

dấu hiệu đầutiên của một kết quả ở Hanfordnăm 1953, họ được nghe thông báo
của JohnWheeler thông báo về thiết bị lò phản ứngmới ở sông Savannađang
được xây dựng ở NamCarolina.Cácđiều kiện tại sông Savannalà lý tưởng cho
thực nghiệm nàyvà năm 1955Reines vàCowan bắt đầuthực nghiệm ở đây.Năm
1956 họ quan sát thấy phản neutrinoelectron.Một thời gianngắn sau đó, Cowan
rời khỏi Los Alamos và họ kết thúc sự hợp tác. Trong một thờigian sau đó, Reines
nghiêncứu thiên văntia gammavà sớm bắt đầu thựcnghiệm đầu tiên trongmột
chuỗi liên tụccác thực nghiệm tại sôngSavanna nhằmnghiên cứu các tính chất của
neutrino.
Reinesrời Los Alamosnăm 1959để trở thànhgiáo sư và trưởngKhoa Vật lý
của Viện Côngnghệ Caseở Cleveland (Ohio).Trong bảy nămở Case, Reinesxây
dựng một nhóm nghiêncứuvề vật lý neutrinocủa lò phản ứng,sự phân rã beta,
thời gian sống của electron,sự phân rã nucleonvà một thực nghiệmrất lý thú
trong một mỏ vàng ở NamPhi mà nó tạo ra quan sát đầu tiênvề các neutrinosinh
ra trong khí quyển nhờ các tia vũ trụ. Các mục đíchban đầu của chương trình thực
nghiệmlà giải thích các tính chất củaneutrino và tìm các giới hạn của các nguyên
lý đối xứng cơ bản và các địnhluật bảotoàn như định luật bảo toàn điệntích, số
baryon và số lepton.Hầu hếtcác thực nghiệmnày đòi hỏi sự suy giảm của dòng
muon trong tia vũ trụ để bảo đảm thành công vàsự vận hành củacác phòng thí
nghiệmở sâu dưới mặt đất .Các dự ánhướng nhómnghiên cứu củaReinesphát
triển các kỹ thuậtmáy dò cải tiến trong đó bao gồmviệc sử dụng bộ nhấpnháy
chất lỏng lớn và các máy dò Cherenkov nước.
Hướng nghiên cứu nóitrên vẫn đượctiếp tục khi Reines vànhóm nghiên
cứu của ôngchuyển đến Đại học Californiamới ở Irvinenăm 1966.Reines trở
thành hiệu trưởng TrườngKhoa học vật lý vàgiữ cương vị này cho đến năm 1974.
Sau đó, ông quaytrở về công việcgiảng dạy và nghiêncứu.Ông được bổ nhiệm làm
giáo sư vật lý nổi bật ở UCI năm 1987và giáo sư danh dự năm 1988. Reinescòn là
giáo sư phóng xạ tại Cao đẳng Y khoaở UCI. "Nhóm neutrino" ở Irvineđã có nhiều
nghiêncứu trong mộtphạm vi rộng của các thựcnghiệm vật lý hạt cơ bản và
neutrinotrong đó có thực nghiệmphân rã proton Irvine-Michigan-Brookhaven

(IMB).Nhóm này tiếp tục chươngtrình thực nghiệm neutrino lò phản ứng vàlần
đầu tiên quansát thấy sự phân rãbeta képtrong phòng thí nghiệm.Nhóm
neutrinocủa Reinesđã đượcHội Thiênvăn Mỹ trao tặng Giảithưởng Bruno Rossi
về vật lý thiên văn năng lượng cao năm 1989do sự phối hợp quan sát neutrino
cùngvới Thực nghiệm Kamiokandeở NhậtBảntrongsao mới rựcsáng (supernova)
1987A. Việc dò được neutrino của sao mới rực sáng là mộtkết quả rất đáng tự hào
của thực nghiệmIMB.
Một số các ý tưởng thực nghiệm và lĩnhvực nghiêncứu khác làđối tượng
quan tâm của Reinesnhư tìm kiếm các neutrinotàn tích, "hiệu ứngMossbauer
neutrino"trong đó mộtphotonđược thay thế bởimột neutrino, phép đo hằngsố
hấp dẫn G, kínhthiên văn không gianvới thấu kính cầu,thiết lập các giới hạn
nghiêmngặt hơnvề sự vi phạm nguyên lý cấm Pauli,dùng siêu âm để khám phá
não và các ýtưởngmáy dò mới.
Giáo sư Frederick Reinesđã nhận đượcnhiều danhhiệu và phầnthưởng
cao quí như Sigma XI(1944), giảng viênmột trăm năm của Đạihọc
Maryland(1956), hội viên Hội Vật lý Mỹ (1957),thành viên Guggenheim(1958-
1959), thành viên Alfred P.Sloan (1959-1963),viện sĩ Viện Hànlâm Nghệ thuật và
Khoa họcMỹ (1966), tiến sĩ khoahọc danh dự Đại họcWitwatersrandở
Johannesburg (NamPhi)(1966), PhiBetaKappa (1969),Giải thưởngStevens
(1971),giảng viên nổi bật củaDại học Californiaở Irvine (1979), hội viên Hiệp hội
vì sự tiến bộ khoahọc Mỹ (1979), viện sĩ Viện Hàn lâmKhoa học Quốc gia Mỹ
(1980),Giải thưởng J.Robert Oppenheimer(1981),tiến sĩ kỹ thuậtdanhdự của
Viện Côngnghệ Stevens(1984), Huychương vì sự xuất sắc nghiên cứucủa Đại học
Californiaở Irvine (1985), Huy chương Khoa họcQuốc gia (1985), giảng viên L.I.
Schiff của Đại học Stanford(1988), giảng viên Albert Einstein củaViện Hànlam
Khoa họcvà Nhân văn Israel ở Jerusalem (1988),Giải thưởngBruno Rossi của Hội
Thiênvăn Mỹ (1989), Giải thưởngMichelson-Morley (1990), giảng viên
Goudsmidt (1990),biển ghi nhớ của Đại học NewYork (1990),Giải thưởng cựu
nam sinhviên nổi bật của khoaNghệ thuật và Khoa học thuộc Đại học New York
(1990),Giải thưởng W.K. H. Panofsky (1992), Huychương Franklincủa Viện

BenjaminFranklin (1992) vàviện sĩ nước ngoài ViệnHàn lâm Khoahọc Nga
(1994).Ông mấtnăm 1998

×