Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ đẻ đẩy mạnh hoạt
động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả
năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy, về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu
cầu tài trợ trên nhiều mặt.
+ Giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những
chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành
đấu thầu một cách phù hợp.
+ Giai đoạn sau khi ký kết hợp đồng: Sau khi ký kết được hợp đồng, các nhà nhập khẩu
cần được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhiều khi nhà nhập
khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài trợ ở nước ngoài.
+ Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể
phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các
công việc ở địa phương để chuẩn bị cho đầu tư.
+ Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có
thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu.
+ Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ
(có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể
nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
+ Xử lý tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập
khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian nhập hàng về tới khi hàng
hoá được tiêu thụ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có nhu
cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được các sản
phẩm làm ra và thu được tiền hàng.
4. Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh doanh đối ngoại
của Ngân hàng thương mại:
Trong hoạt động xuất khẩu cũng diễn ra quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá như các
ngành kinh tế với mục đích cuối cùng là thực hiện giá trị hàng hoá. Nó chỉ có điểm khác
biệt là việc mua bán diễn ra giữa các đối tác có quốc tịc khá nhau, hàng hoá được vận
chuyển từ nước này sang nước khác, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ. Chính vì vậy
khâu cuối cùng của hoạt động xuất nhập khẩu là khâu thanh toán cũng có những điểm
khác với thanh toán trong nước thực hiện trên cơ sở sau:
Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương trong đó
quy định các điều kiện về thanh toán quốc tế:
- Điều kiện về thời gian.
- Điều kiện về địa điểm.
- Điều kiện về phương thức thanh toán.
Trên cơ sở đó, người xuất khẩun sẽ tiến hành giao hàng, sau đó sẽ ký phát hối phiếu, séc
của người nhập khẩu gửi đến ngân hàng nước mình nhờ thu hộ tiền ghi trên các phương
tiện thanh toán đó. Các ngân hàng này chuyển các phương tiện thanh toán đến các ngân
hàng nước nhập khẩu để thu hộ.
Như vậy, cơ sở để hình thành hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng thương mại
là hoạt động ngoại thương. Nói đến ngoại thương là nói đến thanh toán quốc tế. Nếu
thanh toán quốc tế được thực hiện tốt thì giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu mới được thực
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiện tốt, thúc đẩy tài trợ ngoại thương góp phần không nhỏ cho việc đưa ngoại thương
phát triển và là yếu tố quan trọng để đánh giá quan hệ kinh tế quốc tế đối với sự phát triển
của một quốc gia.
IV.các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trên thế giới.
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình. Đối với hoạt động tín
dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của mình cùng với mục tiêu thu
hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro các ngân hàng cũng lựa chọn các
hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đ•ã trở
thành một người bạn đồng hành không thể thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
1. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu:
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các hình thức
sau:
1.1. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất khẩu sẽ nộp lên
ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuẩt khẩu sẽ chuyển đến ngân
hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh
toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy
vậy, thời gian để có tiền thanh toán do nhà nhập khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu
vốn tạm thời. Nhà xuất khẩu lúc này có thể yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị
bộ chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu chứng từ
nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:
- Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một phần.
- Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như chiết
khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng
phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn hạn phục vụ
nhu câu tiền mặt tạm thời.
1.2. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ.
Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được hưởng lợi.
Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể sử dụng L/C để thế
chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp lưng) hoặc nhà xuất khẩu có thể
đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu các hối phiếu của bộ chứng từ thư tín dụng,
ngoài ra với một L/C cho phép bán lại chứng từ đòi tiền nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng
chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu một thư tín dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể
nhận được một khoản tín dụng từ ngân hàng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C điều khoản đỏ,
nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu vào thời điểm xác định
trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá, các điều khoản ứng trước thường được
quy định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp cho nhà xuất
khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi phí liên quan còn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước, vật bảo đảm của nhà xuất khẩu
khi nhận tiền ứng trước.
Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước cùng với lãi
sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp). Nếu nhà xuất khẩu
vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C, các
ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở L/C.
1.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán tức là mua lại
các khoản nợ phải đòi.
Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau khi trừ đi chi
phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác định theo công thức:
Tck = M *(1- Lck * t ) – P
36.000
Tck: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu
Lck: lãi chiết khấu
Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ này phụ thuộc
vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh toán, hình thức và giá trị hối
phiếu.
Ưu điểm:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản tín
dụng cung ứng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản tiền
chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn.
Những quy định của luật hối phiếu vẫn cho phép ngân hàng truy thu khoản nợ từ người
xuất trình hối phiếu (nó như một dạng tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu).
Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông thường nhất
trong hoạt động ngoại thương.
Quy trình chiết khấu hối phiếu:
1. Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu đòi nợ
tới nhà nhập khẩu.
2. Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho nhà
xuất khẩu.
3. Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu.
4. Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài khoản
của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ thu).
5. Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết khấu
và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.
6. Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà nhập
khẩu và đề nghị thanh toán.
7. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị thanh
toán.
8. Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài khoản
của mình.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
9. Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, chi phí
hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được thực hiện.
10. Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu chuyển
hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến Ngân hàng Trung
ương.
10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có thể truy đòi
trực tiếp nhà xuất khẩu.
10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu.
1.4. Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá.
Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà xuất
khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu hối phiếu. Lãi suất chiết khấu
phụ thuộc vào phương thức chiết khấu.
Có 2 loại:
- Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ, nếu
không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu -> lãi suất thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên nước
ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của khách hàng.
1.5. Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để họ sử
dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả gốc và lãi.
Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng khác ra đời
và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay ngắn hạn(<12 tháng) và dài
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với những yêu cầu về vốn tạm thời để trang
trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho vay dài hạn để cung cấp tiền đầu tư vào máy móc
thiết bị, cơ sở hạ tầng… Thông thường, các nhà XNK vay ngắn hạn để chi trả tiền lương,
chi phí vận chuyển, thu mua hàng xuất khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ
sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Ưu điểm:
- Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối tượng,
mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân hàng để xin được cấp
vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi yêu cầu trong nguyên tắc tín dụng
ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay.
- Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho món
vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.
Nhược điểm:
Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì giá cả thị
trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng hóc, mất mát.
- Thanh toán “factoring” và “forfaithing”:
+ Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua
bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt động xuất khẩu, cung
ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ này là tính miễn truy đòi tương
đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu trước đó nếu các chứng từ là bằng chứng
cho các khoản nợ không được thanh toán khi đến hạn. Khác với hoạt động mua lại chứng
từ thanh toán, hoạt động factoring không sử dụng các tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
có thể chào khách hàng bằng cách tài trợ này, gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập
cơ sở đặc biệt, chuyên dụng vì factoring không phải là nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động
factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ hợp
đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều
nước trong cùng một thời điểm.
- Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng được những điều kiện sau mới được phép
mua bán:
Những khoản thanh toán phải tồn tại một cách hợp pháp.
Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản thanh toán
này.
Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
Những khoản thanh toán phải đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền của người thứ ba.
Không có việc cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập khẩu hoặc
nước nhập khẩu.
Forfaithing: kỹ thuật factoring được chuyên môn hoá cao gọi là forfaithing. Về cơ bản
nghiệp vụ này giống nghiệp vụ factoring ở những đặc điểm sau:
Forfaithing chỉ bao gồm những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn bộ quá trình
xuất nhập dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu nói riêng.
Thời hạn thanh toán của forfaithing là trung và dài hạn, áp dụng với loại tiền tệ có khả
năng chuyển đổi mạnh USD, DEM…
Factoring phục vụ XNK không sử dụng tới chứng từ còn forfaithing dựa vào chúng và sự
đảm bảo của ngân hàng.
2. Tín dụng nhập khẩu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình thức như cho
vay mở L/C, tín dụng chấp nhận hối phiếu…
2.1. Cho vay mở L/C
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho
nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó
khi họ xuất trình toàn bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C.
Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ:
1. Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gởi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở một
L/C cho người xuất khẩu hưởng.
2. Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập L/C và thông qua ngân hàng
đại lý của mình ở nước xuất khẩu thông báo việc mở L/C tới nhà xuất khẩu.
3. Sau khi nhận được thông báo, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà xuất
khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển ngay cho
nhà xuất khẩu.
4. Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không thì
đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng.
5. Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất
trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh toán.
6. Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh toán
cho nhà xuất khẩu.
7. Ngân hàng phát hành kiểm tra toàn bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến
hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả
lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -